Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
333499
 LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ

XÃ THẠCH LONG

(1946 - 2021)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ THẠCH LONG

HUYỆN THẠCH THÀNH

 

 

 

 

 

 

 

 

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ

XÃ THẠCH LONG

(1946 - 2021)

 

Bản thảo lần 3

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NHÀ XUẤT BẢN THANH HÓA - 2022



 

 

BAN CHỈ ĐẠO SƯU TẦM, NGHIÊN CỨU VÀ BIÊN SOẠN

1.Đồng chí Nguyễn Thị Huế, Bí thư Đảng ủy, Trưởng ban

2.Đồng chí Từ Văn Cương, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó ban

3.Đồng chí Nguyễn Đình Bằng, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND, Phó ban

 

 

BAN SƯU TẦM TƯ LIỆU

 

1.Đồng chí Từ Văn Cương,

Phó Bí thư thường trực Đảng ủy - Trưởng ban;

2.Đồng chí Lê Thị Nhung,

ĐUV, Phó Chủ tịch HĐND xã - Phó ban;

3.Đồng chí Đoàn Quang Thuận,

ĐUV, Phó Chủ tịch UBND xã - Thành viên;

4.Đồng chí Đào Văn Đông,

ĐUV, Phó Chủ tịch UBND xã - Thành viên;

5.Đồng chí Bùi Văn Hoà,

ĐUV, Chủ tịch Ủy ban MTTQ xã - Thành viên;

6.Đồng chí Lê Đắc Hải,

ĐUV, Chỉ huy trưởng Quân sự xã - Thành viên;

7.Đồng chí Đỗ Mạnh Tuấn,

 ĐUV, Trưởng Công an xã - Thành viên;

8.Đồng chí Trần Thị Dược,

ĐUV, Chủ tịch Hội LHPN xã - Thành viên;

9.Đồng chí Vũ Hồng Thăng,

ĐUV, Chủ tịch Hội Nông dân xã - Thành viên;

10.Đồng chí Trương Thị Thẻ,

ĐUV, Bí thư Chi bộ, Trưởng Trạm Y tế - Thành viên;


 

 

 

 

11.Đồng chí Phạm Văn Thuỷ,

ĐUV, Bí thư chi bộ 1, Trưởng thôn 1 - Thành viên;

12.Đồng chí: Lê Kỳ Lân,

Nguyên Bí thư Đảng uỷ xã - Thành Viên;

13.Đồng chí: Phạm Đăng Khoa

Nguyên Phó bí thư Thường trực Huyện ủy

14.Đồng chí Nguyễn Văn Phúc,

Nguyên Phó Chủ tịch UBND xã - Thành viên;

15.Đồng chí Nguyễn Đức Đài,

Nguyên Chủ tịch UBND xã - Thành viên;

16.Đồng chí Lê Đình Quang,

Nguyên Chủ tịch UBND xã - Thành viên;

17.Đồng chí Đặng Quang Đắc,

Nguyên Bí thư Đảng uỷ xã- Thành viên;

18.Đồng chí Lê Văn Can,

Nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ tịch UBND xã - Thành viên;

19.Đồng chí Bùi Văn Ngọc,

Nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ tịch UBND xã - Thành viên;

20.Đồng chí Phạm Đình Nguyệt,

Nguyên Bí thư Đảng ủy xã - Thành viên;

21.Đồng chí Lê Văn Khuyên,

Nguyên Bí thư Đảng ủy xã - Thành viên;

22.Đồng chí Nguyễn Xuân Sợi,

Nguyên Chủ tịch UBND xã - Thành viên;

23.Đồng chí Bùi Công Định,

Nguyên Phó Bí thư thường trực Đảng ủy - Thành viên;

24.Đồng chí Phạm Viết Lĩnh,

Nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, Nguyên Phó Chủ tịch UBND xã:

25.Đồng chí Vũ Vinh Quang,

Chủ tịch Hội CCB xã - Thành viên;

26.Đồng chí Bùi Văn Bảo,

Sỹ quan cao cấp, nghỉ hưu -Thành viên;

27.Đồng chí Lê Văn Luân,

Sỹ quan cao cấp, nghỉ hưu - Thành viên;

28.Đồng chí Trần Tấn,

Nguyên Ủy viên BCH Đảng bộ, nguyên Bí thư chi bộ;

29. Đồng chí Phạm Văn Hùng,

Phó giám đốc Trung tâm học tập cộng đồng;

30.Đồng chí Lê Xuân Mơi,

Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã - Thành viên;

 

BAN BIÊN SOẠN

 

1.Đồng chí Nguyễn Thị Huế

2.Đồng chí Từ Văn Cương

3.Đồng chí Nguyễn Đình Bằng

4.Đồng chí Nguyễn Ngọc Khiếu

 Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa

5.Đồng chí Hồ Thị Phương

 Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa

 

 

 

 

 

 

 

 


LỜI GIỚI THIỆU

 

Thạch Long là một xã trung du miền núi nằm về phía tây nam huyện Thạch Thành, là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử - văn hóa. Nhân dân Thạch Long có truyền thống đoàn kết, giàu lòng yêu nước và cách mạng, cần cù năng động sáng tạo trong lao động sản xuất, kiên cường anh dũng trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, để xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.

Từ ngày có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng, nhân dân Thạch Long đã đứng lên đi theo Đảng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; tích cực đóng góp sức người, sức của cho cách mạng và ra sức xây dựng bảo vệ và phát triển quê hương theo đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

Thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc “Tiếp tục nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng”, những năm qua, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Thạch Long đã tổ chức sưu tầm, xác minh tư liệu và các sự kiện lịch sử truyền thống của Đảng bộ. Dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Thạch Thành, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Thạch Long khóa XXIX, nhiệm kỳ 2020-2025 quyết nghị tổ chức nghiên cứu, biên soạn và xuất bản cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã Thạch Long (1946 - 2021).

Cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã Thạch Long (1946 - 2021) là một công trình khoa học lịch sử, trình bày khá toàn diện những chặng đường lịch sử vẻ vang của Đảng bộ và Nhân dân xã nhà trong 75 năm. Qua đó giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng, lòng tự hào dân tộc cho cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân địa phương, nhất là thế hệ trẻ, từ đó phấn đấu đưa sự nghiệp đổi mới đi vào chiều sâu, xây dựng Đảng bộ vững mạnh, quê hương giàu đẹp, văn minh. Cuốn sách cũng là sự tri ân của thế hệ hôm nay đối với các thế hệ đi trước đã đóng góp công sức, trí tuệ, mồ hôi và cả xương máu của mình để viết nên trang sử vẻ vang của quê hương.

    Nhân dịp cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã Thạch Long (1946 - 2021) được xuất bản, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện, trực tiếp là Ban Tuyên giáo Huyện ủy Thạch Thành; sự giúp đỡ nhiệt tình và trách nhiệm của các đồng chí nguyên là cán bộ chủ chốt của địa phương qua các thời kỳ; của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong, ngoài xã đã cung cấp nhiều thông tin và tư liệu quý báu; sự cộng tác của Hội khoa học Lịch sử Thanh Hóa, Nhà xuất bản Thanh Hóa để cuốn sách ra mắt bạn đọc đúng với kế hoạch đề ra.

 Trong quá trình nghiên cứu, biên soạn mặc dù chúng tôi đã cố gắng rất nhiều nhưng do tư liệu còn hạn chế, nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong xã cùng bạn đọc gần xa để tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh thêm trong lần tái bản.

     Trân trọng cảm ơn !

T/M BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ

BÍ THƯ

 

 

Nguyễn Thị Huế

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương I

THẠCH LONG - VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG

LỊCH SỬ, VĂN HÓA

 

I.VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

1.Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

Thạch Long là một xã trung du miền núi của huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm huyện 5km về phía tây. Có tọa độ địa lý 2006’58’’ vĩ độ Bắc, 105036’56’’. Phía bắc giáp xã Thạch Đồng, ranh giới là giữa dòng chảy từ Khe Trầu, nối lạch giáp biên phía bắc gò Mã Vượn, nối lạch giáp biên phía bắc khu Núi Nẻ và giữa dòng chảy hón Sành. Phía đông giáp xã Thành Hưng, ranh giới là giữa dòng chảy sông Bưởi. Phía đông nam giáp làng Bưởi xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lộc; ranh giới là giữa dòng chảy sông Bưởi. Phía nam và tây nam giáp xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc.

Theo số liệu thống kê năm 2020, tổng diện tích đất tự nhiên của xã Thạch Long là 1045,36ha. Trong đó:

- Diện tích đất nông nghiệp là 743,01ha;

- Diện tích đất phi nông nghiệp là 296,0ha;

- Diện tích đất chưa sử dụng là 6,36ha.

Theo số liệu thông kê toàn xã có 1.366 hộ với 4.850 khẩu (có 131 hộ theo đạo Công giáo) trong đó: người Mường 575, chiếm 11,9%; người kinh 4275,chiếm 88.1%.

Về địa hình: Thạch Thành là “một huyện thung lũng” vì cả huyện đều có địa hình xen kẽ giữa núi đồi cao, thấp và thung lũng lớn nhỏ. Nhìn toàn cục, Thạch Thành có hai dạng địa hình chính: Một là, dải núi đá vôi Tam Điệp kéo dài từ xã Ngọc Trạo lên xã Thạch Lâm theo hướng bắc đông bắc. Hai là, vùng ven sông Bưởi và vùng đồi thấp(1). Địa hình xã Thạch Long thuộc dạng thứ hai, tức là vùng ven sông Bưởi và vùng đồi thấp

Đất đai: Gồm 3 loại đất chính: Đất Feralit ở vùng đồi thấp, phân bố trên các đồi thấp của địa bàn xã, một số nơi kết vón dạng sỏi cơm, hoặc đá bô non. Đặc tính là đất chua, ít mùn, thành phần khoáng chiếm tỉ lệ cao, có màu vàng đỏ, thích hợp với các loại cây ăn quả dài ngày, cây lâm nghiệp. Đất phù sa sông Bưởi được chia làm hai loại: Đất phù sa không được bồi đắp thường xuyên và đất phù sa được bồi đắp thường xuyên. Đất phù sa không được bồi đắp thường xuyên phân bố ở các cánh đồng của các thôn trong xã, đặc tính đất thịt, có màu nâu nhiều sét nên dễ bị quánh nếu canh tác không đúng kỹ thuật. Thích hợp với các loại cây ngắn ngày như lúa, hoa màu (đậu, ngô, khoai, các loại rau,…). Một phần diện tích ở các ô trũng có màu đen dạng than bùn (đồng Lì). Đất phù sa được bồi đắp thường xuyên, phân bố ở cánh đồng ven sông, ngoại đê làng Cổ Tế. Mang đặc tính của đất phù sa nhưng hàng năm tầng mặt được bồi đắp thêm nên chất lượng đất tốt hơn.

  Về khí hậu: Thạch Long nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng khí hậu miền Bắc nhiều hơn miền Trung. Khí hậu thể hiện 2 mùa rõ rệt: Mùa hè chịu ảnh hưởng gió Tây Nam (gió Lào), mùa đông chịu ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 22,90C, cao nhất tháng 7 là 320C, thấp nhất tháng 1 khoảng 140C, chênh lệch trong ngày từ 60C đến 80C, ngày cao nhất tuyệt đối là 380C, ngày thấp nhất tuyệt đối là 50C. Lượng nước bốc hơi trung bình hằng năm là 684mm, nhiều nhất tháng 5 là 106mm, thấp nhất vào tháng 3 là 41mm, trung bình một ngày là 5,5mm. Độ ẩm bình quân là 85%, cao nhất tuyệt đối là 91%, thấp nhất tuyệt đối là 31%, số ngày ẩm là 210 ngày, số ngày có sương mù là 95 ngày. Lượng mưa trung bình hằng năm từ 150ml/hg, năm cao nhất là 1.900ml, năm thấp nhất là 700ml, mưa thường tập trung vào tháng 7, tháng 8, tháng 9. Theo thống kê tại trạm thủy văn Kim Tân, trong 15 năm (từ năm 1961 đến năm 1976), lượng mưa trung bình là 1.420mm, do mưa phân bố không đều nên nạn lụt xảy ra thường xuyên.

Sông Bưởi: có tên là sông Tế Giang, còn có tên là sông Bảo. Sông Bưởi dài 130km, bắt nguồn từ huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình chảy dài theo chiều dọc của huyện từ xóm Bai Nhai xã Thạch Lâm về Thạch Long, Thành Hưng, sau đó chảy qua hai xã Vĩnh Khang và Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc rồi đổ vào sông Mã. Sông Bưởi chảy qua huyện Thạch Thành dài 60km. Sông chia huyện thành 2 phía tả ngạn và hữu ngạn. Phía hữu ngạn gồm các xã: Thạch Lâm, Thạch Tượng, Thạch Quảng, Thạch Cẩm, Thạch Sơn, Thạch Bình, Thạch Tân, Thạch Định, Thạch Đồng, Thạch Long. Phía tả ngạn gồm các xã: Thành Yên, Thành Mỹ, Thành Vinh, Thành trực, Thành Minh, Thành Công, Thành Tân, Thành Vân, thị trấn Vân Du, Thành Tâm, Ngọc Trạo, Thành An, Thành Thọ, Thành Long, Thành Tiến, Thành Kim, thị trấn Kim Tân, Thành Hưng. Dòng sông Bưởi hẹp và dốc, do chảy qua vùng đá vôi, đá ong, đất sét nên nước ít thẩm thấu vào đất, lòng sông Bưởi uốn lượn quanh co nên thủy chế thất thường, mùa mưa nước dâng lên nhanh. Sau mùa mưa, nhất là mùa đông nước xuống nhanh, dòng nước cạn kiệt. Do vậy, mực nước giữa mùa mưa và mùa khô thường cách nhau khoảng 10m.

Xã Thạch Long có sông Bưởi chảy qua mang đến nhiều lợi ích cho cuộc sống người dân xã Thạch Long. Ngoài việc là nơi tiêu úng khi mùa lũ xảy ra, sông Bưởi còn là công cụ phục vụ đắc lực cho việc cung cấp nước trong nông nghiệp. Đến mùa khô hạn, nước sông từ trạm bơm Long - Đồng đổ về đã cung cấp nước tưới, hỗ trợ cho vụ đông xuân và vụ mùa, đảm bảo sản xuất đúng thời vụ, giúp cho lúa và cây màu không bị giảm năng suất. Sông Bưởi được ví như một chiến hào, một “bức tường tự nhiên” đại kiên cố bảo vệ làng xã không cho đạo tặc, thú dữ đến phá hoại và cướp bóc tài sản của Nhân dân. Trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, xã Thạch Long được chọn là địa điểm sơ tán của các cơ quan Liên khu III như trại tù Lý Bái Sơ, Cục Quân nhu Quân khu Ba,vv...

Về giao thông đường bộ: Xưa kia, hệ thống đường giao thông bộ trong làng và nội đồng chỉ tận dụng những vạt đất nổi và những con đập đất bờ vùng giữ nước. Mùa mưa thì lầy thụt, mùa khô thì đường sống trâu khấp khểnh. Đã từng tồn tại câu ca: “Cơm ăn ba bát chưa no/ Lấy chồng Cổ Tế những lo lội đường”. Đường bộ kém, không có phương tiện vận tải cơ giới, tất cả đè nặng trên vai người lao động.

 Ngày nay, với chủ trương Nhà nước và Nhân dân cùng làm, hệ thống giao thông đường bộ của xã Thạch Long đã hoàn toàn đổi mới, cứng hóa, liên thôn, nội đồng và liên xã. Từ trung tâm xã Thạch Long đi qua xã Thạch Đồng, xã Thạch Bình, đi theo Tỉnh lộ 516, đến xã Thạch Quảng gặp đường Hồ Chí Minh, đi tiếp khoảng 130km đến Thủ đô Hà Nội. Từ trung tâm xã qua xã Thạch Định đến cầu Cứng Kim Tân về phía đông là ra thị xã Bỉm Sơn, đi tiếp đường Quốc lộ 1A khoảng 60km đến thành phố Thanh Hóa hoặc từ trung tâm xã đến cầu Cổ Tế đi khoảng 56km đến thành phố Thanh Hóa.

  Về tài nguyên nước: Tài nguyên nước gồm nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm. Nước mặt là nguồn nước sông suối, kênh mương, ao hồ, cung cấp cho cây trồng. Nguồn nước ngầm trong lòng đất chủ yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho Nhân dân thông qua việc đào giếng theo kiểu truyền thống, ngày nay là giếng khoan.

  Về tài nguyên rừng: Trên địa bàn xã Thạch Long, phía tây có núi rừng hùng vĩ. Các dãy núi Hang Ma, đồi Thánh Giá đều là rừng già nhiều gỗ quý như lim, lát, sến, táu, trầu, chà vải, sấu vân thị, xà đanh, chiên chiến, luồng nứa, mây song, củ mài, củ nâu, các loài cây cho quả, các loài cây làm thuốc…; nhiều loài thú: hổ, báo, hưu, nai, lợn, nhím, khỉ…; nhiều loài chim: gà rừng, sáo, yểng, vẹt, cò, vạc. Hiện nay những sản phẩm quý hiếm của rừng đã không còn.

Trong địa bàn xã có những vùng đầm lầy cũng là rừng đa dạng sinh học của các loài động vật và thực vật thủy sinh: Rù rì, dành dành, các loài dây leo, các loài thân thảo: Năn, niễng, lúa ma, bèo; các loài động vật thủy sinh: Rùa, ba ba, lươn, trạch, ếch, nhái, các loài cá nước ngọt, các loài giáp xác, nhuyễn thể quý như: Tôm, cua, ốc, trai, hến …

Ở khu trung tâm địa bàn xã có cụm cây to có hàng trăm năm tuổi. Cụm cây cổ thụ này có 3 cây đa đứng thế chân kiềng cách nhau khoảng 10 mét, trong đó có một cây ôm cây kéo. Dân làng thường gọi cụm cây này là Cây đa Đền Phúc. Cụm 4 cây cổ thụ này to lớn, cành đan nhau tạo thành thế đứng vững trãi chống chọi hiên ngang trước mọi cơn bão lụt. Cành cây lớn đến độ trẻ chăn trâu chạy được trên các cành lớn. Tán cây xum xuê thành hình mâm xôi khổng lồ. Bóng cây che mát cả một vùng rộng lớn. Nhân dân quý trọng cụm cây cổ thụ này nên thường tổ chức những lần bồi đắp thêm đất cho vùng gốc cây thêm cao, rộng. Năm 2010, các cành cây quá nặng đã tự gẫy, toàn cụm cây cổ thụ này đã cùng lúc đổ gãy. Nhân dân đã tận dụng làm vật liệu xây dựng cho các công trình công cộng, và đã trồng lại cụm cây mới với mong ước có được cụm cây to đẹp như xưa.

Với vị trí và điều kiện tự nhiên trên, xã Thạch Long vừa thuận lợi để sản xuất nhưng cũng vừa phải đối mặt với những khó khăn, thách thức. Với đặc điểm về địa hình, Thạch Long có điều kiện thuận lợi phát triển các loại cây trồng, vật nuôi đặc trưng của vùng trung du, đồi núi, đồng thời cũng có thể nuôi trồng các loại động, thực vật vùng chiêm trũng, từ đó mở rộng trao đổi hàng hóa của các vùng, miền khác, phát triển kinh tế địa phương. Từ năm 1984, khi Đảng và Nhà nước tiến hành xây dựng trạm bơm Long Đồng nhằm bơm nước sông Bưởi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của Nhân dân, sản xuất nông nghiệp của Thạch Long có bước nhảy vọt. Sản xuất nông nghiệp trong xã đã chủ động hoàn toàn về hai vụ lúa hằng năm, nhất là sản xuất vụ chiêm xuân. Từ đây, ruộng đồng ở Thạch Long không còn xuất hiện cảnh bỏ hoang như những năm trở về trước. Đặc biệt, từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhân dân Thạch Long đã tăng cường áp dụng các ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đưa năng suất sản lượng cây trồng, vật nuôi ngày một tăng cao; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng cao.

  Bên cạnh những thuận lợi, Thạch Long cũng đối mặt với vô vàn khó khăn. Với khí hậu diễn biến phức tạp, Nhân dân trong xã phải đối mặt với thiên tai lũ lụt; mùa khô kéo dài phải đối mặt với hạn hán, gây ảnh hưởng nặng nề tới sản xuất và sinh hoạt của người dân. Ngoài ra, là vùng đất chiêm trũng, giao thông khó khăn ảnh hưởng nền kinh tế đang phát triển của xã. Trước những khó khăn đó, Thạch Long hiện nay đã và đang khắc phục, vươn lên hội nhập với nền kinh tế của huyện và đã hoàn thành cơ bản các tiêu chí xã Nông thôn mới.

II.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ, LÀNG XÃ

Địa bàn xã Thạch Long ngày nay được hình thành cùng với sự phát triển của huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.

Thời Ðinh - Tiền Lê - Lý, Thạch Thành là miền đất thuộc huyện Nhật Nam. Cho đến thời nhà Trần - Hồ, Thạch Thành nằm trong hai huyện Tế Giang và Yên Lạc. Huyện Yên Lạc thời vua Lê Quang Thuận (năm 1460) được đặt là huyện Thạch Thành, lệ thuộc vào phủ Thiệu Thiên. Còn huyện Tế Giang thuộc lưu vực sông Bưởi, thời Lê Quang Thuận được đổi tên thành huyện Bình Giang. Đến đời vua Lê Trung Hưng, huyện Bình Giang gọi là huyện Quảng Bình.

Thời Tây Sơn, huyện Quảng Bình đổi thành huyện Quảng Bằng. Theo sách ‘‘Địa Chí Thạch Thành’’, huyện Quảng Bằng bao gồm có 5 tổng là: Quảng Địa, Án Đổ, Phú Ổ, Cổ Biện và Trường Cát. Thạch Long lúc bấy giờ là tổng Cổ Tế, một trong 5 tổng thuộc huyện Quảng Bằng.

Đầu thời Nguyễn, huyện Quảng Bằng đổi lại thành huyện Quảng Bình. Cho đến năm Minh Mạng thứ 2 (năm 1821), huyện Quảng Tế đổi tên thành huyện Quảng Trị, sau lại đổi huyện Quảng Tế.

Đến năm Thành Thái thứ nhất (năm 1889), huyện Quảng Tế và huyện Thạch Thành sáp nhập thành huyện Thạch Thành thuộc phủ Quảng Hóa. Danh xưng (tên gọi) Thạch Thành xuất hiện từ đây và giữ nguyên cho đến nay.

Cuối năm 1945, huyện Thạch Thành tiến hành xóa bỏ đơn vị hành chính cấp trung gian là tổng, đồng thời chia 11 tổng cũ thành 11 đơn vị hành chính cấp xã. Theo đó, tổng Cổ Tế đổi thành xã Cẩm Bào; tổng Phú Ổ đổi thành xã Kiến Hưng.

 Đầu năm 1947, xã Cẩm Bào sáp nhập với xã Kiến Hưng lấy tên là xã Thạch Long. Lúc này, xã Thạch Long gồm các làng: Cẩm Bào, Xuân Áng, Yên Phong, Dương Giao, Cự Lý, Đống Châu, Phú Ổ, Cự Môn, Đồng Trạch, Duyên Linh, Cổ Tế.

  Tháng 7 năm 1953, đội giảm tô về huyện Thạch Thành và kết thúc tháng 11 năm 1953 khi đội rút thì 2 làng Xuân Áng và Cẩm Bào sáp nhập vào xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, còn xã Thạch Long được chia thành 2 xã Thạch Long và Thạch Đồng. Lúc bấy giờ, đồng chí Vũ Văn Bọc làm Bí thư chi bộ, đồng chí Lưu Trọng Lợi (làng Phú Ổ) làm chi ủy viên kiêm Xã đội trưởng(1).

Từ năm 1977, xã Thạch Long có 7 thôn: Cổ Tế, Cổ Lăng, Sơn Hà, Đại Long, Hoàng Tiến, Long Khang và Cự Lý.

- Sự hình thành các làng và tên gọi qua các thời kỳ:

1.Làng Cổ Tế (nay là thôn 1): nằm ở phía đông nam xã Thạch Long, có sông Bưởi (Tế Giang ) chảy quanh làng, lại có đường Thiên lý - nay là Quốc lộ 45 chạy qua, cách thị trấn Kim Tân 5 km. Phía bắc giápThôn 2 xã Thạch Long.phía nam giáp xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, phía đông giáp song bưởi và xã Thành Hưng, phía tây giáp thôn 4. Diện tích tự nhiên là 269,19ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp: 178,21 ha đất canh tác với 2 cánh đồng rất thuận tiện cho việc phát triển kinh tế. Dân số của làng có 382 hộ, 1.190 nhân khẩu (tính đến năm 2021).

Làng Cổ Tế còn có các tên: Cổ Biện, sách Cổ Tế, xã Cổ Tế, thôn Cổ Tế. Phía Bắc giáp làng Cự Lý, Dương Giao, Phú Ổ, Cự Môn. Phía Đông giáp Đồng Trạch, sông Bưởi, xã Thành Hưng. Phía Nam giáp làng Còng, Xuân Áng. Phía tây giáp thành Đại La, Xuân Áng, đồi Mỏ, đồi Thợi, xã Cẩm Long (huyện Cẩm Thủy). Trong cuốn sổ “Tục lệ việc làng Cổ Tế” ghi ngày 08 tháng 10 năm Khải Định thứ ba (1918) chép làng có 320 xuất đinh.

Làng Cổ Tế được hình thành từ tổng Cổ Biện huyện Quảng Địa cách đây hàng trăm năm. Làng có một giai thoại về Thành hoàng làng ‘‘Nghiêm Sơn hộ quốc và Mai Hoa công chúa’’ đến nay vẫn còn lưu truyền, ngợi ca trong Nhân dân. Với Nghiêm Sơn Hộ Quốc:

‘‘Giúp dân dẹp giặc, xây làng mới

Dân giàu, nước mạnh khắp mọi nơi

Nghiêm sơn hộ quốc ghi tạc dạ

Tâm hồng, đức đại thượng về trời ……’’

Với Nữ Thần:

‘‘Mai Hoa công chúa nữ thiên thần

Dạo chơi hạ giới, lại giúp dân

Dẹp giặc xong rồi cùng xây làng mới

Công ơn trời bể xiết muôn phần……..’’

  Đến tháng 8 năm 1945, tổng Cổ Tế gồm có 5 thôn, làng: Cổ Tế, Xuân Áng, Cẩm Bào, Yên Phong và Cự Lý. Thôn Cổ Tế có 5 xóm: Xóm Thượng (xóm Ngược), xóm Cổ Tiến, xóm Cổ Tân, xóm Cổ Long và xóm Cổ Độ.

Cuối năm 1945, 11 tổng trước đây của huyện Thạch Thành được chính quyền cách mạng huyện Thạch Thành đổi thành 11 xã. Tổng Cổ Tế được đổi thành xã Đồng Tâm, tổng Phú Ổ được đổi thành xã Kiến Hưng.

Với truyền thống ấy trải qua bao thăng trầm của lịch sử, làng vẫn tồn tại và phát triển lưu truyền trong Nhân dân và truyền thống hiếu học tại bia văn chỉ. Là một làng lớn trong xã điều kiện tự nhiên ưu đãi, giao thông thuận lợi, do vậy số con em được học hành và người thành đạt chiếm tỷ lệ cao trong xã, chất lượng giáo dục được coi trọng, kinh tế phát triển. Đời sống Nhân dân ngày một được cải thiện số hộ giàu ngày một tăng lên, hộ nghèo còn 5 hộ, chiếm tỷ lên 1,24%. An ninh chính trị luôn được giữ vững, trật tự an toàn xã hội đảm bảo, đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, Làng đạt danh hiệu Làng Văn hoá cấp huyện năm 2015.

Làng có 04 Lão thành cách mạng gồm các đồng chí Trần Cừu, Vũ Văn Bọc, Nguyễn Bá Cường, Phạm Văn Khương và 8 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng gồm các mẹ Trịnh Thị Dục, Trần Thị Vợi, Trịnh Thị Nhịp, Tạ Thị Vân, Trịnh Thị Kẹc, Bùi Thị Bèo, Nguyễn Thị Tân, Vũ Thị Lựng. Làng được công nhận hoàn thành 14 tiêu chí Nông thôn mới vào năm 2017. Hiện nay làng có 01 chi bộ với 70 đảng viên, Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng thôn là đồng chí Phạm Văn Thủy, Trưởng ban công tác Mặt trận là đồng chí Hoàng Thanh Nam và các Ban ngành đoàn thể trong thôn duy trì hoạt động thường xuyên. Phấn đấu năm 2022 xây dựng thành công đơn vị kiểu mẫu.

  2.Làng Sơn Hà (nay là thôn 2) được hình thành từ năm 1964. Phía đông giáp sông Bưởi, phía nam giáp thôn 1, phía tây giáp thôn 3, tây bắc giáp thôn 6, phía bắc giáp thôn Duyên Linh, xã Thạch Đồng.

Tổng diện tích đất tự nhiên của làng là 172,22 ha, diện tích sản xuất đất nông nghiệp: 140,43 ha. Làng được hình thành từ một số hộ của làng Cổ Tế và một số hộ dân của 2 xã Hoằng Lý và xã Hoằng Đại định cư. Dân số hiện nay là 288 hộ, với 1.013 khẩu được chia thành 3 xóm.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền xã, trực tiếp là Chi ủy Chi bộ 2, thôn 2 đã tổ chức khai trương xây dựng làng văn hóa. Đến nay đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ đó là đường giao thông được nhựa hóa và bê tông cứng hóa, khuôn viên và nhà văn hóa được xây dựng đảm bảo các điều kiện cho Nhân dân sinh hoạt; đường nội đồng được bê tông hoá và đổ cấp phối. Nhân dân tích cực tham gia sản xuất phát triển kinh tế tăng hộ giàu, hộ nghèo hiện nay còn 03 hộ, chiếm tỷ lệ 1,08%. Đời sống Nhân dân ngày một được cải thiện, số hộ giàu ngày một tăng lên, an ninh chính trị luôn được giữ vững, trật tự an toàn xã hội đảm bảo, đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao. Thôn đạt danh hiệu Làng Văn hóa cấp huyện năm 2013 và được công nhận hoàn thành 14 tiêu chí Nông thôn mới vào năm 2014. Thôn có 01 chi bộ với 40 đảng viên, Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng thôn là đồng chí Tào Văn Ninh, Trưởng Ban công tác Mặt trận là đồng chí Lê Văn Tùng và các Ban ngành đoàn thể trong thôn duy trì hoạt động thường xuyên.

  3.Làng Cổ Lăng (nay là thôn 3): Là một trong những thôn trung tâm của xã Thạch Long, nằm giữa trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội của xã. Phía đông nam giáp thôn 2 và thôn 4, phía tây giáp thôn 4 và thôn 5, phía bắc giáp thôn 6 và thôn 2. Tổng diện tích tự nhiên 87,0ha, trong đó: Diện tích đất nông nghiệp 48,91ha, diện tích mặt nước 2 ha. Tổng số hộ 131 hộ, số khẩu là 396.

Từ năm 1950 -1951, làng Cổ Lăng được hình thành từ những hộ di cư từ làng Cổ Tế kết hợp với một số hộ các địa phương khác định cư. Làng có vị trí địa lý thuận lợi, trên trục đường liên xã chạy qua làng có trường Tiểu học, trường Trung học cơ sở và UBND xã đóng trên địa bàn. Nhân dân tích cực tham gia sản xuất phát triển kinh tế tăng hộ giàu, hộ nghèo hiện nay còn 02 hộ, chiếm tỷ lệ 1,52%. Nhân dân trong làng luôn luôn giữ gìn và phát huy thuần phong, mỹ tục, chuẩn mực đạo đức và tập quán tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, xây dựng đời sống văn hóa, văn minh và tiến bộ xã hội, phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư; thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư’’, năm 2013 được công nhận danh hiệu làng văn hóa cấp huyện, thôn được công nhận hoàn thành 14 tiêu chí Nông thôn mới vào năm 2016. Hiện nay, thôn có 01 chi bộ với 10 đảng viên, Bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn là đồng chí Phạm Văn Giang, Trưởng ban công tác Mặt trận là đồng chí Tào Thị Hải, các Ban ngành đoàn thể trong thôn duy trì hoạt động thường xuyên.

  4. Làng Đại Khang (nay là thôn 4) phía đông giáp thôn 1, thôn 3, phía nam giáp thôn Đồi Thợi, xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc. Phía tây giáp huyện Cẩm Thủy. Phía tây bắc giáp thôn 5.

Làng được hình thành từ năm 1963 do Nhân dân xã Hoằng Đại (thành phố Thanh Hoá) và Nhân dân xã Vĩnh Khang (huyện Vĩnh Lộc) định cư lên xây dựng kinh tế mới. Tổng diện tích tự nhiên là 220,96ha, trong đó diện tích rừng, đồi 55,65 ha, diện tích đất nông nghiệp:163,20 ha, còn lại là đất khác. Dân số 335 hộ với 1285 khẩu, nghề nghiệp chủ yếu là trồng lúa nước. Nhân dân tích cực tham gia sản xuất phát triển kinh tế tăng hộ giàu, hộ nghèo hiện nay còn 03 hộ, chiếm tỷ lệ 0.9%. Làng luôn coi trọng công cuộc xây dựng đời sống văn hóa, văn minh và tiến bộ xã hội, phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư; thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư’’, năm 2013 được công nhận danh hiệu làng văn hóa. Thôn được công nhận hoàn thành 14 tiêu chí Nông thôn mới vào năm 2016. Làng có 02 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng là mẹ Nguyễn Thị Trạch, mẹ Lê Thị Hợi. Hiện nay, cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong thôn đang phấn đấu sớm trở thành thôn kiểu mẫu vào năm 2023. Hiện nay, thôn có 01 chi bộ với 23 đảng viên, Bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn là đồng chí Lê Đức Thủy, Trưởng Ban công tác Mặt trận là đồng chí Nguyễn Văn Dũng, các Ban ngành đoàn thể trong thôn duy trì hoạt động thường xuyên.

5. Làng Cự Lý (nay là thôn 5): Làng có vị trí địa lý núi non bao bọc hình cánh cung hướng về đông nam. Làng giáp ranh với 2 huyện Vĩnh Lộc, Cẩm Thủy. Tổng diện tích đất tự nhiên 210 ha, trong đó đất nông nghiệp 171,78 ha, đất lâm nghiệp 147,35 ha còn lại là đất khác. Dân số 129 hộ, với 569 khẩu, trong đó dân tộc Mường có 77 hộ, với 342 khẩu. Nghề nghiệp chính của cư dân ở đây là sản xuất nông, lâm nghiệp.

Làng Cự Lý chủ yếu là dân tộc Mường sinh sống với 100% người Mường theo đạo công giáo. Cách đây khoảng 400 năm (1619 ), họ Lý từ Hòa Bình vào gồm ba anh em Lý Nguyên, Lý Hắc và Lý Hào sinh cơ lập nghiệp tại khu vực Cự Lý ngày nay. Sau đó các dòng họ Bùi, Quách từ Bằng Phú và Cẩm Thủy đến sinh sống. Từ khi hình thành làng (1619) cho đền năm 1888 có tên là sách An Liêm, xã An Liêm. Từ năm 1889 được đặt tên là thôn Cự Lý thuộc tổng Cổ Biện, tổng Cổ Tế. Làng Cự Lý cư ngụ dựa theo sườn phía tây dãy núi Thánh. Phía bắc giáp Khe Sâu, xã Cẩm Long, huyện Cẩm Thủy; Phía nam giáp xóm Cổ Lăng, thôn Cổ Tế.

Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 và trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, làng Cự Lý thuộc tổng Cổ Tế, có 4 dòng họ, với 22 hộ dân sinh sống từ lâu đời. 100% là dân tộc Mường. Năm 1964, nhân dân miền xuôi lên định cư và phát triển kinh tế tại làng Cự Lý. Lúc này có 2 dân tộc Mường và Kinh cùng sinh sống. Nghề nghiệp sinh sống chủ yếu của cư dân trong làng là sản xuất nông - lâm nghiệp.

Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954), làng có 4 người con tham gia Vệ quốc đoàn; trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làng có 30 người tham gia bộ đội và 2 thanh niên xung phong. Trong đó, có 4 người con đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Mặc dù phong tục, tập quán tuy có khác nhau nhưng Nhân dân trong làng vẫn một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, luôn đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau không phân biệt lương - giáo. Ban đầu làng Cự Lý kết nạp 02 đảng viên là ông Quách Văn Lộc và ông Bùi Văn Vi, do số lượng đảng viên ít nên đảng viên làng Cự Lý phải sinh hoạt ghép với làng Cổ Lăng. Năm 2016, làng được công nhận danh hiệu thôn văn hóa. Dưới sự lãnh đạo của Chi ủy và chính quyền thôn, nhân dân trong thôn đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành 14 tiêu chí Nông thôn mới vào cuối năm 2021.

Nhân dân tích cực tham gia sản xuất phát triển kinh tế, tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo . Hiện nay toàn thôn còn 05 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 3,91%. Thôn có 01 chi bộ với 11 đảng viên. Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng thôn là đồng chí Nguyễn Văn Giang, Trưởng Ban công tác Mặt trận là đồng chí Lưu Văn Hưng, các Ban ngành đoàn thể trong thôn duy trì hoạt động thường xuyên.

6. Làng Hoàng Tiến (nay là thôn 6)

Từ năm 1960, theo tiếng gọi của Đảng và Nhà nước đi xây dựng vùng kinh tế mới ở miền núi, Nhân dân xã Hoằng Tiến (huyện Hoằng Hóa) do ông Bùi Trí Tồn và ông Trần Viết Tục đưa Nhân dân lên lập làng mới tại xã Thạch Long, gọi là làng Hoàng Tiến. Ngày đầu thành lập, làng có 35 hộ và 155 nhân khẩu, từ một nơi là khu vực đồng lầy rậm rạp, Nhân dân ngày đêm không quản khó khăn mệt nhọc khai phá mở rộng diện tích đất canh tác. Đến nay, tổng diện tích đất tự nhiên của làng là 86 ha, trong đó đất nông nghiệp 54,48ha, đất rừng 17 ha. Dân số của làng có 101 hộ và 397 nhân khẩu. Con em trong làng đều được đến trường, đến nay, làng đã có 18 em đỗ vào các trường Đại học, trong đó có 01 Tiến sỹ là ông Lê Xuân Hải, 2 Thạc sỹ là Phạm văn Doanh và Trương Thế Sơn và 01 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng là mẹ Bùi Thị Lứ.

Nhân dân tích cực tham gia sản xuất phát triển kinh tế tăng hộ giàu, hiện nay còn 01 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 0,98%. Đời sống Nhân dân ngày một được cải thiện, an ninh chính trị luôn được giữ vững, trật tự an toàn xã hội đảm bảo, đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao. Làng đạt danh hiệu làng Văn hóa cấp huyện năm 2011. Thôn được công nhận hoàn thành 14 tiêu chí Nông thôn mới vào năm 2016. Hiện nay, thôn có 01 chi bộ với 13 đảng viên. Bí thư chi bộ, Trưởng thôn là đồng chí Phùng Văn Thanh, Trưởng Ban công tác Mặt trận là đồng chí Nguyễn Viết Dục, các Ban ngành đoàn thể trong thôn duy trì hoạt động thường xuyên.

     III. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA

Thạch Long là địa bàn sinh sống của đồng bào dân tộc Kinh và dân tộc Mường. Người Kinh và người Mường trên đất Thạch Thành nói chung, Thạch Long nói riêng, vốn có truyền thống yêu nước, đoàn kết, tương trợ. Truyền thống đó được hun đúc trong suốt quá trình lịch sử lâu dài chống thiên tai khắc nghiệt và chống ngoại xâm. Ngày nay, ở Thạch Long, người Kinh và người Mường sống chan hòa với nhau, gắn bó với nhau, không có dấu vết gì về sự kỳ thị dân tộc và đã trở thành một cộng đồng đoàn kết keo sơn, thống nhất.

Truyền thống Văn hóa ở Thạch Long vô cùng phong phú và đa dạng, điều đó được thể hiện sắc nét ở ngôn ngữ, tín ngưỡng, phong tục tập quán.

Về ngôn ngữ, tiếng nói ở Thạch Long, ngoài những đặc điểm chung về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp... vẫn thấy những sự khác biệt khi quan sát nhân dân giao tiếp bằng phát âm.

Đối với tín ngưỡng, từ xa xưa, Nhân dân các làng thuộc tổng Cổ Tế đã có phong tục thờ tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Phật. Khi tổ tiên, ông bà, cha mẹ qua đời sẽ được con cháu lập bàn thờ để phụng thờ. Bàn thờ tổ tiên được đặt giữa gian nhà, tùy theo từng gia đình mà cách bày đồ thờ khác nhau. Bàn thờ đơn giản nhất thì cũng phải có một cái bàn bằng tre, luồng, bên trên đặt bát hương để thờ. Nhà có điều kiện sắm sửa hơn thì bàn thờ có tắc tải sập thờ, tủ chè trên có khám thờ, giao ỷ, tài đèn đỉnh chạm hạc thờ, mâm bồng, giá đũa, ống hương, ống hoa... ngoài ra còn có câu đối của người hay chữ cho, tặng bằng gỗ sơn son thiếp vàng, khảm trai có cuốn thư đại tự. Người mới chết lập bàn thờ riêng, hết tang mới nhập vào bàn thờ chung.

Hằng năm, con cháu nhớ ngày ông bà, cha mẹ mất để làm giỗ (gọi là kỵ nhật). Ở mỗi dòng họ, giỗ ông khởi Tổ đều được làm, không kể bao nhiêu đời. Mỗi nhà chỉ làm giỗ đến đời thứ tư, đời thứ năm (ngũ đại mai thần chủ) thì không làm giỗ nữa mà cúng chung vào ngày tuần tiết trong năm. Bàn thờ tổ tiên để theo dòng trưởng, việc thờ cúng tổ tiên ngoài ngày giỗ còn cúng các ngày Tết theo lịch phương Đông (âm lịch) như tết Nguyên Đán, tết Táo Quân lên trời, tết Thanh Minh, Đoan Ngọ, Trung Nguyên…

Cùng với thờ cúng tổ tiên, người dân Thạch Long trước năm 1960 xã Thạch Long có các chùa, đình, nghè rất to. Sau năm 1960 đều bị phá dỡ làm trường học, trạm y tế, cửa hàng mua bán, do đó Thạch Long cũng rất coi trọng phong tục thờ cúng Thành hoàng. Thành hoàng theo quan niệm của người dân nơi đây là những người có công phù trợ cho dân làm ăn an khang thịnh vượng. Sách Địa chí Thạch Thành chép: “Tất cả các làng trong huyện Thạch Thành trước kia đều thờ Thành hoàng”. Thành hoàng các làng được chia làm 2 loại là thiên thần và nhân thần, thiên thần gồm các liệt vị như chúa Liễu Hạnh, Tản Viên Sơn, Chử Đồng Tử, Phù Đổng Thiên Vương, bốn vị này gọi là tứ bất tử. Nhân thần có thể chia làm ba loại là anh hùng dân tộc, tà thần và yêu thần, người có công lập ấp chết cũng được phong tặng Thành hoàng. Ngoài thờ cúng tổ tiên và thờ Thành hoàng, một bộ phận người dân ở Thạch Long còn thờ Chúa. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đạo Công giáo được truyền bá vào Thạch Long ở thôn Cự Lý; những người theo đạo Công giáo ở Thạch Long luôn một lòng kính Chúa, yêu nước, sống tốt đời đẹp đạo. Đối với phong tục tập quán.

Thạch Long có những phong tục mang nét riêng của địa phương nơi đây như cưới xin, ma chay, kiến trúc nhà ở, trang phục.

Tục cưới xin: Các nghi lễ cưới hỏi thường sẽ qua 4 bước: đánh tiếng, chạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới. Ngày xưa có tục thách cưới, nhiều đám thách cưới rất nặng cần phải đi vay của bà con, làng xóm mới có đủ tiền cưới. Ngày nay, theo nếp sống mới, trai gái đến tuổi trưởng thành có quyền tìm hiểu các nghi lễ thủ tục cưới xin được đơn giảm đi nhiều, việc đi hỏi và xin cưới thường làm trong một buổi, không còn lệ thách cưới. Trước đám cưới, hai nhà bàn nhau để tổ chức cho con, trước Cách mạng tháng 8, khi trai gái đến tuổi xây dựng gia đình không được tự do tìm hiểu mà đều phải có người làm mối, thường cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Kết giao 2 họ là ông mối bà mối. Ông bà mối là người có phẩm chất đạo đức, uy tín trong làng, biết nói năng được mọi người mến phục tin yêu, từ khi trai gái có ý với nhau đến khi thành vợ, thành chồng. Việc hôn nhân thường bị chi phối bởi môn đăng hậu đối, phải phục tùng chữ hiếu, cho nên trong vòng có tang không được cưới vợ, nếu hai bên đã định ngày cưới mà gặp trường hợp đại tang thì hai bên phải giữ kín làm lễ cưới xong mới phát tang. Hôn nhân thông chức liên hoan mừng tân hôn, có người dẫn chương trình hát hò vui vẻ. Người phụ nữ sau khi lấy chồng phải lệ thuộc vào “Tam tòng tứ đức”. Đến khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Luật hôn nhân gia đình, nam nữ bình đẳng, giải phóng phụ nữ, trai gái đến tuổi trưởng thành có quyền tìm hiểu nhau, không ai có quyền ngăn cấm, từ đó quyền lợi người phụ nữ đã được cải thiện đáng kể.

Tang ma: Cùng với việc cưới thì người dân Thạch Long rất coi trọng việc tang ma. Cũng như các vùng khác ở Thạch Thành, mỗi khi có người chết, người dân đều tiến hành lễ tang. Hiện nay, trong tang ma nhiều lễ tiết không cần thiết được bãi bỏ như con dâu con gái khi đưa cha mẹ không phải nằm đường, con trai không cần thiết phải đội mũ chuối.

Về thể thao xã Thạch Long có nhiều môn thể thao truyền thống như môn vật, bợi lội, đua thuyền, kéo co, bóng chuyền…

Về kiến trúc, kiến trúc nhà ở của nhân dân Thạch Long cũng như giống như kiến trúc nhà ở của các dân tộc huyện Thạch Thành. Đó là các kiểu kiến trúc như nhà sàn, nhà đất, nhà dùng gạch ngói. Nhà sàn là kiểu nhà truyền thống được duy trì lâu đời của đồng bào dân tộc Mường và một số người Kinh. Hiện nay, nhà sàn và nhà tranh tre nứa lá rột nát ở Thạch Long không còn tồn tại, phổ biến nhất vẫn là nhà xây gạch lợp ngói. Một số gia đình kinh tế phát triển đã xây dựng được nhà mái bằng, nhà tầng bằng bê tông cốt thép.

  Về trang phục, trước Cách mạng tháng Tám, nam giới khi đi làm thường cởi trần đóng khố. Sau vài năm, nam giới có quần thay cho khố, áo may bằng vải vuông rộng tự dệt, may 5 thân, tay dài, cổ đứng, quần ống què, quần áo tự cắt may bằng tay.

Sau Cách mạng tháng Tám, quần áo nam giới được thay đổi, mặc áo dài, khăn xếp, phù hợp với xã hội mới. Từ năm 1947 - 1948, trang phục đó thôi hẳn không mặc nữa, nam giới đi hội họp thường mặc quần phăng, áo sơ mi. Đến những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây, sản xuất phát triển, hàng hóa nhiều, nam giới ăn mặc sang trọng hơn, quần áo đủ các kiểu, các màu, các loại vải, mùa nào áo nấy.

Khác với trang phục nam giới, trang phục nữ giới có nhiều thay đổi, trước Cách mạng tháng Tám, phụ nữ người Kinh khi đi làm mặc váy (quần nơm). Váy làm bằng vải nhuộm nâu, nhúng bùn, thắt dải yếm, áo cánh bịt tà không hở tà, cổ áo hình quả tim, khuy dọc có 2 túi, có loại gấu to, gấu nhỏ. Tóc vấn chùm bằng khăn đen (nhiễu hoặc nhung), mùa lạnh trùm khăn mỏ quạ. Khi đi hội hè, trang phục ăn mặc nữ giới đẹp hơn, thường mặc váy lĩnh, yếm đậu, thắt khăn bao xanh, áo dài mặc ngoài.

Sau Cách mạng tháng Tám, phụ nữ mặc áo cánh đi hội họp. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, trang phục phụ nữ chuyển dần từ quần đen, chỉ còn trung nữ trở lên mặc quần phăng. Từ năm 2000 đến nay, trang phục quần áo mang tính hiện đại hóa, ngoài trang phục truyền thống áo dài thì com-le, váy díp được sử dụng phổ biến ở nhiều cán bộ phụ nữ, thanh niên.

Ngoài một số phong tục tập quán về đám cưới, đám ma, kiến trúc nhà ở, trang phục, xã Thạch Long còn một số phong tục tập quán khác như lễ mừng thọ, tục đảo vũ, tục giúp đỡ nhau, tục kiêng kỵ, tục riêng...

  Dưới chế độ phong kiến trọng nam khinh nữ, lễ mừng thọ chỉ được tổ chức cho nam giới, đàn ông đến tuổi 50 được miễn phu đai tạp dịch. Khi đàn ông đến tuổi 57 thì lên lão thượng, gia đình tổ chức mừng thọ cho các cụ linh đình làm cỗ to, mời cả làng đến ăn mừng lão thượng. Nhà khó khăn cũng phải cố gắng vay mượn để ăn miếng trả miếng cho làng.

Các cụ cao tuổi nhất trong làng được phong là thủ chỉ ngồi mâm cao nhất, việc làng có phần biếu của làng. Chế độ tôn trọng người cao tuổi vốn là truyền thống tốt đẹp nhưng chỉ được tôn trọng ở nam giới, còn các cụ bà thì dù có trăm tuổi cũng không được làng chú ý đến. Ngày nay phát huy truyền thống cây cao bóng cả, tổ chức mừng thọ, chúc thọ, thượng thọ cho cả cụ ông cụ bà vào dịp đầu xuân ngày càng được tổ chức trọng thể.

Trước đây, Thạch Long cũng như các xã khác của huyện Thạch Thành, sản xuất nông nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, được mùa là do trời, mất mùa là do hạn hán, để giải tỏa tai ác ấy, người ta nghĩ tới các vị phúc thần, có thể thay dân cầu xin thượng đế cho mưa thuận gió hòa. Từ quan niệm đó, mỗi khi trời hạn hán, người ta thường tổ chức “đảo vũ xin mưa”, từ đó tục đảo vũ ra đời.

  Trước Cách mạng tháng Tám, tục đảo vũ ở huyện Thạch Thành có đảo vũ hàng tổng và đảo vũ hàng huyện. Khi trời hạn hán lâu ngày, Lý trưởng các làng xin Cai tổng làm tờ trình, trình quan huyện xin đảo vũ hàng tổng. Sau khi được quan huyện duyệt tờ trình, Cai tổng thông báo cho các làng biết để tiến hành đảo vũ hàng tổng, giao cho Lý trưởng và các ngũ hương chuẩn bị rước sắc, bát hương Thành hoàng tới nơi hội đảo. Ở hội đảo, nhân dân không cúng xôi thịt, chỉ dùng vàng hương, rượu để cúng thần làng mình, tế xong nếu mưa thì tán đảo (rước thần về), nếu chưa mưa thì tối đa 3 ngày 3 lần tế, rồi tán đảo, chỉ vài ngày lại hội đảo lần khác.

  Ngày nay, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, thông tin về thời tiết được dự báo hằng ngày để nhân dân chủ động trong sản xuất, nếu thời tiết hạn hán sẽ vận hành hệ thống tưới đảm bảo việc tưới trong canh tác, không phụ thuộc vào thiên nhiên nên tục này không còn nữa.

Trong cuộc sống xưa kia, do sản xuất chưa phát triển, mỗi cá nhân rất cần sự bao bọc, che chở, giúp đỡ của cộng đồng, từ đó việc giúp đỡ nhau trong cuộc sống được hình thành, trở thành phong tục tốt đẹp. Ở Thạch Long, tục giúp đỡ nhau thường được thể hiện ở 2 mặt, giúp của và giúp công: Giúp của như tiền bạc, gạo… còn giúp công là hình thức giúp không lấy công, đổi công. Nhờ có tục giúp đỡ nhau mà sức mạnh đoàn kết của Nhân dân trong làng xóm được phát huy tối đa thông qua các công việc như dựng nhà, làm cửa và một số công việc khác.

  Trước Cách mạng tháng Tám, Thạch Long có tới 95% dân số không biết chữ, trình độ dân trí thấp. Vì vậy, trước những hiện tượng huyền bí của thiên nhiên, con người chưa giải thích được, họ đều cho là siêu nhiên nên phải tôn thờ, kiêng kỵ. Từ đó, lâu dần thế hệ này truyền thế hệ khác, cứ thế mà kiêng kỵ theo cách “Xưa bày nay làm”, trở thành tục kiêng kỵ.

Tục kiêng kỵ là tục lệ chung của cả hai dân tộc, có những điểm giống nhau như tục lệ lúc đi gặp rắn hay gặp Rùa thì về, vào rừng không được gọi tên nhau, muốn gọi nhau thì hú… Ngày nay các hiện tượng của thiên nhiên đã được khoa học giải thích cho nên một số tục kiêng kỵ không còn xuất hiện trong cộng đồng dân cư, làng, xã.

Như vậy, Thạch Long đã để lại dấu ấn văn hóa riêng trong truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, một nền văn hóa không lẫn với bất kì vùng miền nào. Hiện nay, do sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, nhiều nét văn hóa đã bị thay đổi hay mất đi, có những nền văn hóa thay đổi theo theo chiều hướng tốt lên, nhưng cũng có những nét văn hóa đẹp đang dần mất đi.

 


Chương II

THẠCH LONG TRONG PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG GIÀNH CHÍNH QUYỀN DÂN CHỦ NHÂN DÂN VÀ THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

(1930 - 1954)

     I.TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA THẠCH LONG TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

  Cuối thế kỷ XIX, sau khi đặt ách đô hộ lên đất nước ta, thực dân Pháp ra sức củng cố chế độ cai trị của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ biến nước ta thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, nhằm đẩy mạnh việc đàn áp, bóc lột nhân dân ta.

1.Về chính trị: Thực hiện chính sách “chia để trị”, dùng người Việt trị người Việt, thực dân Pháp chia nước ta thành ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ với ba chế độ chính trị khác nhau ở mỗi kỳ. Thanh Hóa thuộc Trung Kỳ là một xứ bảo hộ do chính quyền Nam triều (nhà Nguyễn) quản lý dưới sự giám sát, bảo hộ của thực dân Pháp.

   Ở cấp tỉnh, đại diện cho chính quyền đô hộ của thực dân Pháp là viên Công sứ (người Pháp) thay mặt cho Khâm sứ chỉ đạo mọi hoạt động từ tỉnh xuống đến làng xã. Giúp việc cho Công sứ là phó sứ cùng các nha, sở chuyên môn do các quan chức người Pháp quản lý như: chủ kho bạc; chánh, phó giám binh (coi việc binh); chánh, phó đạc điền; 1 lục bộ, 1 đốc học.

   Song song với chính quyền cấp tỉnh của Pháp, Thanh Hóa còn có bộ máy chính quyền của triều đình nhà Nguyễn gồm: Tổng đốc, Án sát, Bố chánh, Lãnh binh. Tổng đốc là người đứng đầu tỉnh, có trách nhiệm giúp Công sứ Pháp điều hành công việc hàng tỉnh. Trợ giúp Tổng đốc là các viên Lãnh binh, Bố chánh, Án sát, Bang biện.

    Dưới chính quyền cấp tỉnh là phủ, huyện, châu (đối với miền núi), đứng đầu là viên tri phủ, tri huyện, tri châu. Các vị quan này vừa làm nhiệm vụ cai trị, vừa xét xử hình án, thu thuế, bắt phu phen tạp dịch và giữ trật tự an ninh trong địa hạt của mình. Giúp việc cho tri phủ, tri huyện, tri châu có một số nha thuộc đề lại, lục sự, thừa phái. Ngoài ra còn có đội phủ, đội huyện làm nhiệm vụ tại phủ, tại huyện đường và để các quan sai phái xuống làng xã khi có việc.

    Đơn vị hành chính trung gian giữa phủ, huyện là tổng, do Chánh tổng đứng đầu, có nhiệm vụ truyền đạt và đôn đốc chính quyền cấp xã thực thi những nhiệm vụ mà chính quyền cấp trên giao phải thi hành.

   Cấp dưới cùng là làng, xã (cấp chính quyền cơ sở). Cũng như các địa phương khác trong tỉnh, bộ máy chính quyền cấp làng, xã ở Thạch Long thời bấy giờ có hai tổ chức: Hội đồng kỳ mục và tổ chức lý dịch.

   Hội đồng kỳ mục (gồm các quan viên về hưu, cựu lý trưởng, phó lý, người cao niên có uy tín đứng đầu, còn gọi là ông trùm, hay ông thủ chỉ), không trực tiếp điều hành, tồn tại như một hội đồng tư vấn. Nhưng thực tế Hội đồng kỳ mục quyết định, còn lý trưởng, phó lý và bộ phận “ngũ hương” phải thực hiện. Hội đồng kỳ mục có nhiệm vụ góp ý với chính quyền về các công việc có tính chất kinh tế, xã hội.

   Tổ chức lý dịch do lý trưởng đứng đầu và là người duy nhất chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên về việc quản lý làng, xã. Giúp việc cho lý trưởng có phó lý và bộ phận “ngũ hương” (1). Từ năm 1941, mỗi làng còn có thêm các chức Hương Lâm (người trông coi bảo vệ rừng của làng), Hương Thơ (người đi lấy thư từ, thông sức từ Đội Trạm (bưu điện huyện). Trong mỗi làng còn có tổ chức tuần phiên cắt cử trai tráng canh phòng, dưới sự điều hành của trương tuần (do Hương kiểm phụ trách). Ngoài ra, làng còn có các phe giáp, hội làng văn, làng võ.

   Thân phận người dân được chia thành hai loại: Dân đinh (nam giới từ 18 - 60 tuổi) và dân thường là những người còn lại. Dân đinh được lý trưởng ghi chép vào sổ đinh và lưu giữ. Chính quyền thực dân quản lý chặt chẽ những người có tên trong sổ đinh, thông qua lý dịch thu thuế thân và các loại thứ thuế khác.

   Ở Thạch Thành, tổ chức một bộ máy cai trị tương tự như các huyện miền xuôi: tri huyện, chánh tổng, lý trưởng, hương kiểm… Chúng duy trì chế độ bóc lột phong kiến của giai cấp địa chủ và chế độ lang đạo ở các xứ Mường nhằm tạo ra một tầng lớp xã hội làm chỗ dựa cho thực dân Pháp. Thâm độc hơn là chúng thực hiện chính sách chia rẽ giữa người Kinh và người Mường. Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, Nhân dân Thạch Long cũng không nằm ngoài thiết chế quản lý hành chính như trên.

 Thiết chế xã hội mường ở Thanh Hóa trước năm 1945 theo chế độ lang đạo cha truyền con nối “ruộng cha con cày - chiếu cha con ngồi”. Mỗi ông lang hoặc đạo làm chủ một mường. Quy mô của các mường có thể khác nhau. Có những mường lớn bao gồm cả một khu vực rộng, nhưng cũng có những mường nhỏ phạm vi hẹp. Trong một thời gian lịch sử tương đối dài, vùng mường Thanh Hóa, chính quyền quân chủ Trung ương không cử quan cai trị trực tiếp ở các châu, động, huyện...mà “dành quyền” cho các lang đạo. Các mường đều có luật mường. Dân mường có nghĩa vụ làm xâu, nạp lễ vật cho lang đạo; lang đạo cũng có lễ vật cho quan tỉnh. Đến triều vua Minh Mạng (1832), mới áp dụng chế độ lưu quan ở vùng mường Thanh Hóa, nhưng chỉ áp dụng được ở hai huyện: Thạch Thành và Cẩm Thủy”(1).

 Là một huyện miền núi, về kết cấu tổ chức hành chính ở huyện Thạch Thành trước đây vừa có làng, xã, chòm, xóm vừa có tổng, có mường. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, huyện Thạch Thành có 37 mường và 11 tổng.

   Mường là hình thức tổ chức hành chính có từ xa xưa của cộng đồng người Mường nói chung và ở Thạch Thành nói riêng. Tuy về mặt phân định địa giới của Mường có phần lỏng lẻo hơn so với tổng, xã của người Việt, nhưng phép tắc cai trị trong mường lại rất hà khắc và nghiêm ngặt. Người đứng đầu cai trị có quyền hành và uy lực nhất trong các mường là quan lang. Trong mường, núi rừng, chim muông, ruộng đồng và của cải đều là của nhà Lang, quan Lang muốn lấy lúc nào cũng được, không ai dám chống lại. Hàng năm đến mùa cấy gặt, mọi người trong mường phải đi làm không công cho nhà Lang trước, xong việc nhà Lang mới được về làm ruộng nhà mình. Nhà lang có ma chay, lễ lạt các gia đình trong mường phải mang của cải đến góp. Con trai nhà Lang có quyền lấy vợ bất cứ con gái đẹp nhà nào trong mường còn con gái nhà Lang không được lấy con trai dân thường.

   2.Về kinh tế:

   Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hơn 85% đất đai ở Thạch Long nằm trong tay giai cấp địa chủ trong vùng. Đa số nông dân không có ruộng cày cấy và trở thành tá điền quanh năm phải đi làm thuê cuốc mướn cho địa chủ để kiếm sống. Trong làng đa số là nhà tranh vách đất đủ để che nắng che mưa, về mùa mưa to gió bão là mối lo ngại cho người dân. Tuy vậy để có ngôi nhà tạm cũng phải trải qua bao gian lao vất vả, gắp nhặt chắt chiu mới có được; đường xá quanh co nhỏ hẹp tối tăm, cảnh làng xơ xác tiều tụy. Không những thế, nông dân Thạch Long còn phải gánh chịu nhiều loại thuế khóa nặng nề. Dã man nhất là thuế đinh, gọi là “sưu”, loại thuế này đánh vào đầu người nam giới từ 18 đến 60 tuổi. Có gia đình do quá nghèo khổ không có tiền để nộp sưu thuế phải bỏ trốn khỏi làng đi làm phu trong các đồn điền của thực dân Pháp... hoặc nhiều người phải bỏ xác nơi đất khách quê người.

    3.Về Văn hóa - xã hội:

   Trong suốt hơn 80 năm đô hộ, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách “ngu dân” làm cho hơn 95% dân số của Thạch Long không biết chữ. Khoa thi chữ Hán cuối cùng vào năm Kỷ Mùi (1919) ở Trung Kỳ chấm dứt chế độ thi cử bằng chữ Hán trong lịch sử giáo dục khoa cử ở nước ta, thay vào đó là nền giáo dục Pháp - Việt. Ở huyện Thạch Thành Từ năm 1920 - 1945, ở huyện Thạch Thành có 6 trường tiểu học(1) không hoàn chỉnh đặt ở 6 tổng, trong đó trường tổng Cổ Tế đặt tại làng Cổ Tế thuộc xã Thạch Long ngày nay. Hệ Tiểu học lúc bấy giờ dạy bậc Sơ học yếu lược với 3 lớp là: Đồng ấu, Dự bị và Sơ đẳng, sau 3 năm học thì được cấp bằng Sơ học yếu lược, nhưng chủ yếu dạy cho con em thuộc tầng lớp trên. Người nông dân dưới chế độ thực dân phong kiến bị bóc lột đến cùng kiệt, nên con cái không được đi học.

 Về y tế, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc chăm lo sức khỏe cho Nhân dân không được chính quyền thuộc địa và phong kiến chú ý. Cả huyện Thạch Thành cũng như các huyện khác trong tỉnh chỉ có một y tá bảo vệ sức khỏe cho quan lại ở huyện. Các bệnh dịch xảy ra tràn lan không được cứu chữa. Người dân mỗi khi mỗi khi ốm đau, sinh đẻ phải phó thác số mệnh vào các thầy lang, bà mụ, hoặc cầu cúng thần linh. Nên nạn “hữu sinh vô dưỡng” ở các làng đã trở nên phổ biến.

   Bên cạnh đó, chúng khuyến khích đồi phong, bại tục. Thói rượu chè, cờ bạc, nghiện hút, mê tín dị đoan, các hủ tục ma chay, cưới xin… được dung túng, mở rộng nhằm xô đẩy nhân dân vào con đường trụy lạc. Cuộc sống của người nông dân lúc này lâm vào tình cảnh hết sức bi đát, nhiều người đã phải rời khỏi quê hương đi tha phương cầu thực, làng xóm sơ xác tiêu điều.

    Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, Nhân dân Thạch Long không cam chịu lầm than, tủi nhục đã cùng Nhân dân trong huyện, cả tỉnh tiến hành các cuộc đấu tranh từ thấp đến cao chống lại cường quyền, áp bức bóc lột giành lấy cuộc sống, tương lai.

  II.THẠCH LONG TRONG PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG TIẾN TỚI KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN THẮNG LỢI (1930 - 1945)

  Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.

  Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt lớn của lịch sử, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối, giai cấp lãnh đạo, mở đường cho những bước nhảy vọt về sau của cách mạng dân tộc; đồng thời đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng trong tỉnh nói chung và phong trào huyện Thạch Thành nói riêng.

  Tại Thanh Hóa, ngày 29 tháng 7 năm 1930, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập. Từ đây. dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, phong trào cách mạng của công nhân và Nhân dân trong tỉnh diễn ra ngày càng sôi nổi và mạnh mẽ. Tỉnh bộ Thanh Hóa đã phát động phong trào đấu tranh ủng hộ tích cực nông dân các tỉnh Thái Bình, Nghệ Tĩnh chống đàn áp của thực dân Pháp, bảo vệ Xô viết Nghệ Tĩnh… Công nhân trong các đồn điền và trong các cơ sở chế biến công nghiệp cũng biểu tình bãi công ủng hộ các cuộc đấu tranh.

Trong không khí cách mạng của cả nước, cuộc đấu tranh của nông dân Thạch Thành cũng phát triển mạnh. Trong đó, cuộc đấu tranh của nông dân các thôn Cẩm Bào, Cổ Tế, Xuân Áng, Ngọc Trạo… xuất hiện sớm và sôi động nhất. Các cuộc đấu tranh đều diễn ra nhằm mục đích chống thực dân Pháp và địa chủ cường hào gian ác cướp đoạt ruộng đất, chống phu phen tạp dịch.

Tháng 02/1931, được sự chỉ đạo trực tiếp của cơ sở công hội và Công hội đỏ, công nhân, nông phu thời vụ và nông dân thuộc đồn điền Ngọc Trạo đã đấu tranh quyết liệt với chủ đồn điền Pháp đòi tăng tiền công, đòi trả nợ tiền phạt trước đó…Thắng lợi bước đầu của cuộc đấu tranh đồn điền Ngọc Trạo đã cổ vũ tinh thần đoàn kết chống áp bức bóc lột chế độ thực dân, phong kiến của Nhân dân các dân tộc Thạch Thành. Hưởng ứng thắng lợi của Công hội đỏ ở Ngọc Trạo, phong trào Công hội đỏ ở Cẩm Bào - Xuân Áng cũng đã phát triển mạnh và lan rộng ra nhiều địa phương khác như: Phú Sơn, Phú Lộc (tổng Trường Cát), Cổ Tế (tổng Cổ Tế) với nhiều hình thức đấu tranh phong phú.

Cùng với công tác tuyên truyền vận động quần chúng tiến tới thành lập các cơ sở Công hội đỏ, nhiều tổ chức công khai khác cũng được gây dựng trong các tổng và thôn như: hội cấy, hội cày, hội cờ, hội thể dục… Thông qua các tổ chức phường hội, cán bộ cách mạng tập hợp được đông đảo quần chúng Nhân dân, tuyên truyền giác ngộ cách mạng, từng bước chống áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến và những hủ tục, nhờ vậy mà thời gian này nhiều tục lệ đóng góp, lao dịch nặng nề: xôi cân, gà lượt, lệ cầu phúc bị bãi bỏ.

Cũng trong giai đoạn này, do lo sợ trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước, thực dân Pháp đã tiến hành khủng bố dữ dội phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh và các phong trào khác. Thực hiện chủ trương đấu tranh chống khủng bố, ủng hộ Nghệ Tĩnh, củng cố cơ sở của Đảng, Đảng bộ Thanh Hóa đã điều một số cán bộ cốt cán về các huyện miền núi của tỉnh nhằm tiếp tục gây dựng cơ sở, phát triển đường dây liên lạc để giữ vững phong trào cách mạng ở các huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc, Hà Trung…Nhưng do một số yếu tố như lực lượng của quân ta còn mỏng, thiếu tập trung trên địa bàn rộng, điều kiện liên lạc khó khăn, một số cơ sở quen lối hoạt động công khai chưa có kinh nghiệm bảo tồn, giữ gìn lực lượng nên đầu năm 1931, địch đã phát hiện ra cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ, chúng tập trung truy nã, lùng bắt các chiến sỹ cách mạng, nên các đồng chí Lê Văn Thiệp, Trịnh Huy Quang và nhiều cán bộ chủ chốt bị bắt. Suốt thời gian từ cuối năm 1931 đến đầu năm 1933, phong trào cách mạng của Thạch Thành tạm thời bị lắng xuống, sự chỉ đạo liên lạc với Đảng bộ tỉnh cũng bị gián đoạn.

Đầu năm 1934, một số tổ chức cơ sở Đảng của tỉnh được phục hồi. Một số cán bộ của trên phái về và một số cán bộ vượt ngục ra đã từng bước khôi phục chắp nối lại phong trào ở Thạch Thành và Vĩnh Lộc. Đến tháng 3/1934, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã triệu tập Hội nghị đại biểu các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh tại làng Thuần Hậu (Thọ Xuân) bàn chủ trương củng cố phát triển phong trào, khôi phục cơ sở Đảng ở nhiều địa phương trong tỉnh.

Sau Hội nghị Thuần Hậu, Tỉnh ủy chỉ định một số đồng chí cán bộ chủ chốt về phát triển phong trào Vĩnh Lộc - Thạch Thành. Nhờ có sẵn các cơ sở cách mạng được gây dựng từ trước, khi được bổ sung cán bộ về đã chắp mối bắt liên lạc trở lại, phong trào cách mạng của các huyện miền núi phía bắc Thanh Hóa nhanh chóng được phục hồi phát triển. Tháng 02 năm 1934, hơn 100 công nhân và phu đồn điền Vân Du đã biểu tình đòi chủ tăng tiền công, đòi Tri huyện Thạch Thành trả đủ số gạo làm thời vụ theo ngày công cho phu thời vụ. Kết quả tổng Cổ Tế được trả 49 tạ gạo.

  Tháng 4 năm 1934, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã quyết định tổ chức Hội nghị thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản ghép Vĩnh Lộc - Thạch Thành tại chùa làng Xuân Áng, tổng Cổ Tế (Thạch Thành), dưới sự chủ trì trực tiếp của đồng chí Lê Chủ. Tại Hội nghị, đồng chí Lê Văn Tân được cử làm Bí thư Chi bộ Đảng đầu tiên của Vĩnh - Thạch. Sự ra đời của Chi bộ Đảng Vĩnh - Thạch đã đánh dấu bước ngoặt lớn về phong trào cách mạng của hai huyện miền núi, một khu vực chiến lược hết sức quan trọng. Tuy nhiên, do mới ra đời, số lượng đảng viên của Chi bộ không nhiều nhưng đó là những hạt nhân nòng cốt đầu tiên tích cực, có trách nhiệm với công cuộc vận động cách mạng.

Năm 1936, trước sự biến động của tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo, đề ra nhiệm vụ mới là: Chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo, hòa bình. Thực hiện chủ trương của Đảng, Chi bộ Vĩnh - Thạch đã phân công cán bộ, đảng viên phát động phong trào đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng, chống áp bức bóc lột trong quần chúng nhân dân tại các làng, các tổng, đòi dân sinh, dân chủ và các quyền lợi thiết thực hằng ngày.

Trước sự lãnh đạo của Chi bộ Vĩnh - Thạch, quân và dân Thạch Thành đã tích cực phát huy tinh thần đấu tranh, các đảng viên đã cùng với nhân dân chống các áp bức bóc lột của bọn đế quốc thực dân, đòi cải thiện đời sống, từng bước vận động, giác ngộ cách mạng. Ở tổng Cổ Tế, Trạc Nhật và nhiều thôn khác như Cẩm Bào, Xuân Áng, Đông Môn, Dĩ Chế, Thạch Cừ, Hòa Lễ, Đồng Ngư…Những cán bộ hội cứu quốc đã lôi kéo được một số lý trưởng, hào mục vào sinh hoạt trong các tổ chức ái hữu, vận động một số gia đình giàu có đóng góp tiền, gạo để ủng hộ phong trào, cải thiện cuộc sống Nhân dân tại địa phương.

Với sự quyết tâm đấu tranh của quần chúng Nhân dân, phong trào đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Phong trào đã vạch trần những thủ đoạn đàn áp bóc lột của thực dân, phong kiến, góp phần củng cố nội bộ trong Nhân dân. Đồng thời, tại nhiều địa phương, đảng viên đã cùng với Nhân dân xóa bỏ được các hủ tục xôi thịt, cúng bái, ma chay, giảm được một phần khó khăn phiền hà trong đời sống của những người nghèo khổ.

Hưởng ứng phong trào “Đông Dương đại hội” trong cả nước, đầu năm 1937, Chi bộ Vĩnh - Thạch đã vận động Nhân dân ủng hộ Đông Dương đại hội và tiến tới thành lập Ủy ban hành động, bao gồm đại diện các tầng lớp Nhân dân tham gia. Nổi bật trong các cuộc đấu tranh của người dân Thạch Thành thời kỳ này phải kể đến cuộc đấu tranh của nông dân làng Cẩm Bào chống bọn hào mục do xếp Đắc cầm đầu định phá đập Nổ gây ảnh hưởng xấu tới sản xuất của Nhân dân. Ngoài ra, cuộc đấu tranh của Nhân dân làng Đông Môn đánh đuổi tên đội Thiên gian ác, Nhân dân làng Mỹ Xuyên đấu tranh chống thu thuế và nhiều phong trào đấu tranh của Nhân dân làng Ngọc Trạo, Cổ Tế, Xuân Áng, Vân Du, Phố Cát… chống lại bọn hào lý và địa chủ chiếm ruộng đất của người dân, đòi chia lại công điền.

Cũng trong thời gian này, các Hội Thanh niên tương tế, Hội Phụ nữ tương tế, Hội Ái hữu và nhiều tổ chức hợp pháp ở các địa phương đã mở rộng hình thức hoạt động, vận động Nhân dân đấu tranh chống thu thuế, thu lạm, chống các hủ tục phiền hà… Tháng 02 năm 1937, Hội tương tế ái hữu làng Cẩm Bào đã tổ chức họp Nhân dân tại đình làng, buộc hương lý phải bãi bỏ tục ma chay, cheo cưới, xôi cân, gà lượt…

Cuộc đấu tranh đòi dân sinh dân chủ của Nhân dân Thạch Thành nói chung và Nhân dân tổng Phú Ổ những năm 1936 - 1939 đã giành được nhiều thắng lợi. Cuộc đấu tranh đã đẩy mạnh phát triển phong trào cách mạng, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp Nhân dân trong địa phương chống đế quốc và phong kiến. Đồng thời, qua đấu tranh, Nhân dân được giác ngộ hơn về ý thức dân tộc dân chủ, nâng cao hiểu biết chủ trương, đường lối của Đảng, từ đó tạo điều kiện đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc giải phóng dân tộc.

Mỗi khi có sự việc xâm hại đến đời sống của cư dân trong làng thì dân làng cùng đoàn kết thực hiện giành, giữ lợi quyền, điều đó đã nổi tiếng từ lâu đời “gân cổ Tế ”. Hơn thế nữa, mỗi khi biết được những vụ việc quan tham thì các thầy đồ nho cùng cai tổng và các lý trưởng trong tổng đã tham gia các vụ kiện. Có những vụ nông dân kiện phú hào kéo dài ba, bốn năm làm cho bọn hào, lý phải tốn kém nhiều tiền của đút lót quan trên và giảm phần tùy tiện cướp bóc của dân. Từ năm 1940 đến 1944, có những vụ kiện của Nhân dân tổng Cổ Tế còn lôi cuốn được cả lực lượng các tổng trong huyện đánh đổ tri huyện như Tri huyện Đò, tri huyện Thước, quan huyện Nguyễn.

Cuối năm 1938, ở tổng Cổ Tế đã thành lập các nhóm của Thanh niên dân chủ. Nhiều thanh niên yêu nước và nhiệt tình cách mạng tham gia tổ chức này là một tổ chức tuyên truyền đường lối đấu tranh cách mạng, giáo dục và giác ngộ quần chúng. Tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội đã hoạt động dưới nhiều hình thức hợp pháp, bán hợp pháp hoặc bí mật hoạt động trong các tổ chức quần chúng như: Hội đọc sách báo, biểu diễn văn nghệ, diễn thuyết, sáng tác ca dao hò vè nhằm tuyên truyền tư tưởng cách mạng, giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc vào các tầng lớp Nhân dân.

Ngày 15 tháng 9 năm 1939, ông Trần Cừu được ông Trần Đăng Lâm giới thiệu vào Mặt trận phản đế cứu quốc và được giao nhiệm vụ phát triển phong trào ở thôn Cổ Tế. Sau khi phát triển hội viên, ngày 25/9/1939, tại ngôi chùa ở xóm Cổ Độ diễn ra hội nghị thành lập chi nhánh Mặt trận phản đế thôn Cổ Tế. Ông Trần Cừu được bầu làm Bí thư xã ủy Mặt trận phản đế cứu quốc. Hội nghị đã phân công các thành viên đến các xóm để tuyên truyền vận động phát triển hội viên. Sau một tháng, có 12 người đã được kết nạp thành hội viên chính thức là: Mai Văn Khoan, Vũ văn Bọc, Nguyễn Văn Cường, Vũ Văn Tuyên, Vũ Văn Lợi, Vũ Văn Khoái, Vũ Duy Biếm, Vũ Văn Phiếm, Trần Ngỡi, Phạm Văn Đăng, Phạm Văn Tảo, Bùi Văn Thức. Số hội viên dự bị là: Bà Bôn, bà Bèo, bà Kiêm, ông Đỗ Văn Cầu, bà Kích, bà Dính. Các hội viên được vào tự vệ, một số hội viên chính thức được bố trí làm chỉ huy tiểu đội, trung đội tự vệ.

Các đầu mối thường xuyên liên lạc thời kỳ này là Cổ Tế, Cẩm Bào, Xuân Áng và ông Đạo ( ở Phú Lộc).

Đầu năm 1940, Tỉnh ủy Thanh Hóa cử hai đồng chí Tỉnh ủy viên là Đặng Văn Hỷ, Trịnh Tiến Lãn về chỉ đạo phong trào. Gia đình đồng chí Vũ Duy Biếm được giao nhiệm vụ nuôi dấu cán bộ thoát ly. Ông Vũ Văn Phiếm có trách nhiệm cung ứng và bảo vệ cán bộ cấp trên đang hoạt động trong địa bàn Cổ Tế. Ông Đỗ Văn Cầu được giao nhiệm vụ chuyển cán bộ, lương thực, tài liệu, vũ khí qua sông, đảm bảo bí mật và nắm bắt thông tin đường bộ, đường sông. Bà Kiêm thường bán hàng vặt ở cạnh đình làng được giao nhiệm vụ nhận giấy tờ, chỉ đường cho cán bộ…

Tháng 6 năm 1940, đồng chí Hoàng Sỹ Phương (tức Mới) về thay cho đồng chí Đặng Văn Hỷ và đồng chí Trịnh Tiến Lãn. Đồng chí Hoàng Sỹ Phương chỉ thị phải phát động quần chúng, đồng loạt nạp đơn xin kéo dài việc nạp thuế, xin lưu đông. Thực hiện chỉ thị của đồng chí Hoàng Sỹ Phương, Ban Mặt trận phản đế cứu quốc đã phát động các hội quần chúng đồng loạt vận động Nhân dân lấy lý do thiên tai, thất bát xin hoãn thuế và không nạp. Lý trưởng ra sức đôn đốc nhưng mãi đến tháng 10 mới có người nạp(1).

Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, nhiều đồng chí cốt cán đã về các làng xóm phát động quần chúng đấu tranh chống sưu cao thuế nặng, chống áp bức bóc lột, chống bắt phu, bắt lính. Đồng thời thành lập các tổ chức yêu nước: Hội ái hữu, Hội tương tế... Phong trào thực sự lớn mạnh vượt bậc, lôi cuốn nhiều làng tham gia như Cẩm Bào, Xuân Áng, Cổ Tế… Hưởng ứng đấu tranh của Cẩm Bào, Nhân dân Cổ Tế đấu tranh trực diện với địa chủ chống chiếm đoạt ruộng đất, đòi chia lại công điền. Phong trào đấu tranh của Nhân dân càng bị đàn áp thì tinh thần đoàn kết đấu tranh càng chặt chẽ.

Lợi dụng các mối quan hệ Nhân dân trong tổng Cổ Tế, cán bộ, đảng viên thường xuyên bám sát cơ sở để hoạt động cách mạng. Các ông Phạm Văn Ơn, Phạm Minh Quý, Phạm Văn Dinh (thôn Cẩm Bào) và ông Trần Văn Lâm (thôn Xuân Áng) là những cán bộ cách mạng thường đến thôn Cổ Tế chỉ đạo, truyền đạt các chủ trương của Đảng và vận động Nhân dân tham gia các tổ chức quần chúng, phổ biến những phương pháp, kinh nghiệm đấu tranh có tổ chức, tránh manh động, tránh tổn thất, phối hợp với các địa phương để tăng cường sức mạnh và thu được hiệu quả cao hơn. Đặc biệt, trên địa bàn tổng Cổ Tế nói chung và thôn Cổ Tế nói riêng đã được các đồng chí lãnh đạo cấp trên về chỉ đạo như: Đặng Văn Hỷ, Trịnh Tiến Lãn (tức Lãn Phúc Tường), Đặng Châu Tuệ (tức Vện), Hoàng Sỹ Phương (tức Mới), bà Tĩnh (tức Mười). Đó là những cán bộ của Tỉnh ủy, Xứ ủy và Trung ương đã được nhân dân thôn Cổ Tế, tổng Cổ Tế nuôi dưỡng, che dấu, đưa đón đảm bảo an toàn trong những năm 1940 - 1941.

Được sự lãnh đạo của Chi bộ Vĩnh - Thạch và các đồng chí cán bộ của Tỉnh ủy, Khu ủy, tổng Cổ Tế các năm 1940 đến 1941 đã có tổ chức Mặt trận phản đế cứu quốc trực tiếp tổ chức các hoạt động đấu tranh cách mạng. Ông Trần Cừu tiếp tục làm Bí thư Xã ủy Mặt trận phản đế.

Tháng 9 năm 1940, Nhật đánh chiếm Đông Dương. Từ đây Nhân dân Việt Nam vừa phải đấu tranh chống bọn thực dân Pháp xâm lược vừa phải chịu sự đàn áp của phát xít Nhật. Trước tình hình dó, Đảng bộ Thanh Hóa đã kịp thời chỉ đạo phong trào cách mạng ở các địa phương chuyển hướng hoạt động nhằm tránh tổn thất cho Đảng và quần chúng.

Cũng trong tháng 9 năm 1940, Đảng bộ Vĩnh - Thạch đã triệu tập Hội nghị ở thôn Cừ Đông, nhằm phổ biến chủ trương mới của Đảng, xúc tiến việc chuyển hướng các hình thức hoạt động của các tổ chức quần chúng và thành lập Mặt trận phản đế ở hai huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành. Sau Hội nghị, ở nhiều địa phương đã thành lập Hội Phụ nữ phản đế, Thanh niên phản đế và Nông dân phản đế thay thế các tổ chức cứu quốc trước đây.

Tháng 02 năm 1941, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã đề ra biện pháp xây dựng các đội tự vệ chuẩn bị lực lượng tiến lên đấu tranh vũ trang giành chính quyền. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, các đồng chí Trần Tiến Quân, Đặng Văn Hỷ và một số đồng chí khác đã triệu tập Hội nghị tại làng Cẩm Bào để thành lập Ban Cán sự miền bắc Thanh Hóa, trực tiếp lãnh đạo phong trào ở các huyện Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Hà Trung và Nga Sơn.

Tháng 5 năm 1941, đồng chí Đặng Văn Hỷ trong Ban Cán sự miền bắc Thanh Hóa phụ trách phong trào Thạch Thành đã triệu tâp Hội nghị thành lập Huyện ủy phản đế cứu quốc Thạch Thành. Hội nghị tiến hành tại nhà thờ Nguyễn thôn Phú Lộc (tổng Trường Cát). Hội nghị đã tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh phong trào phản đế cứu quốc. Hội nghị đã cử đồng chí Nguyễn Trí Đạo làm Bí thư Huyện ủy cứu quốc phản đế. Thực hiện phân công cán bộ phụ trách xây dựng phong trào phản đế ở các tổng, Hội nghị cử đồng chí Nguyễn Trí Đạo phụ trách tổng Trường Cát, Án Đổ, Tự Cường; đồng chí Tôn Viết Nghiệm phụ trách tuyên huấn tổng Trạc Nhật, Hòa Luật; đồng chí Phạm Văn Cận phụ trách tài chính, giao thông tổng Cổ Tế, Phú Ổ.

 Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hội Phản đế Cứu quốc, phong trào khất thuế phát triển trên toàn huyện. Tháng 5 và tháng 6 năm 1941, tại làng Xuân Áng, Lý trưởng chỉ thu 50% số thuế; tại làng Sậu, Lý trưởng ngả về cách mạng nên trình quan khất thuế cho cả làng.

Việc tổ chức các tổ tự vệ trong tổng Cổ Tế được xúc tiến khẩn trương ở tất cả các thôn trong tổng. Trước hết là thành lập các tiểu tổ tự vệ ở từng xóm, kết nạp những người đã tích cực tham gia các phong trào đấu tranh do Mặt trận phản đế cứu quốc tổ chức, kết nạp cả nam, nữ. Đây là lực lượng nòng cốt để tiếp tục vận động những người trong tổ dân vệ tham gia tự vệ. Những người đang là dân vệ từ khi được kết nạp vào tự vệ, họ vẫn nằm trong tổ chức dân vệ nhưng làm việc cho tổ chức cách mạng phản đế. Các tổ tự vệ, ngay từ khi thành lập đã được cán bộ của Mặt trận phản đế cứu quốc trực tiếp tổ chức học tập rèn luyện võ thuật chiến đấu, kỷ luật tổ chức và bồi dưỡng lòng căm thù giặc, ý chí chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng quê hương, đất nước khỏi ách áp bức của bè lũ cướp nước và bán nước.

Thời gian này, trong tổng Cổ Tế, lực lượng tự vệ đã hình thành ở các thôn, làng như: Thôn Cổ Tế có 19 người, làng Cẩm Bào có 21 người, làng Xuân Áng có 6 người(1).

Sau khi tổ chức thành công cuộc họp tại làng Cẩm Bào để phổ biến nhiệm vụ cho cán bộ cốt cán của các tổ chức cách mạng trong tổng Cổ Tế, Chi bộ Vĩnh Thạch lại tổ chức một cuộc diễn thuyết về công tác cách mạng trong thời gian tới cho đông đảo cán bộ, đảng viên, du kích viên và Nhân dân ủng hộ cách mạng. Ở thôn Cổ Tế, việc bố trí địa điểm, thông tin, bảo vệ cuộc mít tinh do ông Trần Cừu - Chủ tịch Mặt trận phản đế thôn Cổ Tế chỉ huy, tổ chức. Cuộc tuyên truyền được bố trí ở Đồi Mỏ thuộc Xuân Áng, tổng Cổ Tế. Địa điểm này ở bìa rừng, có khoảng cách các làng, có thể đảm bảo cho cuộc mít tinh đông người và có thể tản vào rừng an toàn khi có biến, cũng là vị trí hợp lý để người từ các làng, thôn của tổng Cổ Tế và các làng xung quanh đến dự không quá xa. Việc thông báo tổ chức đến các đối tượng được tham dự mít tinh là hoàn toàn bí mật nhưng để đảm bảo an toàn thì các đơn vị tự vệ phải bố trí 2/3 quân số ở tại địa phương mình để giám sát, che mắt địch, bảo vệ trong từng địa bàn thôn xóm. Nếu có biến thì báo động từ xa bằng tín hiệu. Số du kích đến khu vực mít tinh phải chia hai. Một nửa được vào nghe còn một nửa phải canh gác vòng ngoài. Số anh em được vào nghe cũng được bố trí đứng theo vị trí được phân công để giám sát những người kế cận, nếu thấy có hiện tượng phản ứng diễn ra hoặc hành vi chống đối thì nhanh chóng khống chế.

Thời kỳ này, lực lượng tự vệ đã ra đời và phát triển mạnh ở một số địa phương. Ở Cẩm Bào, Xuân Áng, lực lượng tự vệ mở rộng quy mô phát triển có lúc lên tới trung đội, riêng làng Sậu đã thành lập đội tự vệ nữ. Tháng 4 năm 1941, tại Đồi Mỏ, một cuộc mít tinh quần chúng được tổ chức, hàng trăm người làng Cẩm Bào, Xuân Áng, Cổ Tế nghe đồng chí Phạm Nhân Vượng diễn thuyết kêu gọi đoàn kết đấu tranh đòi giảm thuế, khất thuế, đả đảo phát xít Nhật - Pháp, đả đảo hiệp ước an ninh Nhật - Đông Dương.

Sau một thời gian nghiên cứu và chuẩn bị, tháng 7 năm 1941, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã quyết định xúc tiến xây dựng chiến khu Ngọc Trạo thành căn cứ địa cách mạng của cả tỉnh. Trước quyết định của Tỉnh ủy, Chi bộ Vĩnh - Thạch đã lãnh đạo Nhân dân tích cực tham gia xây dựng chiến khu vững mạnh.

  Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Vĩnh - Thạch, Nhân dân Ngọc Trạo và đồng bào các vùng phụ cận đã rầm rộ hưởng ứng và hết lòng góp sức. Nhiều gia đình ở Ngọc Trạo đã đem súng săn ủng hộ. Nhiều làng ở tổng Trạc Nhật, tổng Cổ Tế… đã quyên góp ủng hộ chiến khu hàng trăm đồng bạc Đông Dương, hàng tạ gạo, hàng chục mét vải… chuyển lên theo đường dây bí mật. Đội viên du kích các làng Cẩm Bào, Xuân Áng được lựa chọn tham gia đội du kích chiến khu. Nhiều cơ sở cách mạng ở Cổ Tế, Trường Cát, Trạc Nhật còn là nơi đón tiếp, che chở, bảo vệ, đưa đón cán bộ lên chiến khu. Tại làng Cẩm Bào, Xuân Áng, tiểu đội nữ làm công tác liên lạc thành lập với mục đích vận chuyển lương thực lên chiến khu. Đội vận chuyển nữ do đồng chí Hoàng Trung Tâm phụ trách, mặc dù mới ra đời nhưng đã hoàn thành xuất sắc việc tiếp nhận hàng hóa, vũ khí, lương thực do cơ sở gửi đến và khôn khéo chuyển lên chiến khu an toàn.

Trên địa bàn tổng Cổ Tế, ông Trần Cừu là Tổng ủy Mặt trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh đã tuyên truyền vận động Nhân dân vận dụng linh hoạt tất cả các hình thức tổ chức quần chúng để có thể lợi dụng hoạt động công khai phục vụ cho các nhiệm vụ bí mật của cách mạng, nhằm tập hợp tất cả các lực lượng Nhân dân cho nhiệm vụ phản đế cứu quốc. Các tổ chức Thanh niên, Nông hội, Ái hữu, Tương tế đều vận động tăng hội viên và nâng cao chất lượng hoạt động, đấu tranh từng bước, phối hợp nhịp nhàng, hạn chế thất thiệt do manh động. Đặc biệt, Mặt trận Việt Minh đã tập trung tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục lực lượng dân vệ để họ hợp pháp hoạt động và bí mật phục vụ cách mạng. Quá trình vận động thuyết phục từng người dân vệ đã được cha mẹ, gia đình kiên trì thực hiện theo sự hướng dẫn của cán bộ Việt Minh.

Tháng 7 năm 1941 Tỉnh ủy Thanh Hóa quyết định thành lập chiến khu du kích Ngọc Trạo thành căn cứ địa cách mạng của tỉnh, tổng Cổ Tế đã quyên góp ủng hộ Chiến khu hàng trăm bạc Đông dương, hang tạ gạo, hang chục mét vải chuyển lên đường dây bí mật, đội viên du kích làng Cẩm Bào, Xuân Áng được lựa chọn tham gia đội du kích chiến khu. Nhiều cơ sở cách mạng tổng Cổ Tế, tổng Trường Cát, tổng Trạc Nhật…còn là nơi tiếp đón, che chở, bảo vệ đưa đón cán bộ lên chiến khu tại làng Cẩm Bào, Xuân Áng tiểu đội nữ làm công tác liên lạc thành lập với mục đích vận chuyển lương thực lên chiến khu. Đội vận chuyển nữ do đồng chí Hồng trung tâm phụ trách đã hoàn thành xuất sắc việc tiếp nhận hang hóa, vũ khí, lương thực do cơ sở gửi đến và nhanh chong chuyển lên chiến khu an toàn.

 Tháng 10 năm 1941, Chiến khu Ngọc Trạo tan vỡ, địch phát hiện có cán bộ cách mạng đang lẫn trốn ở cồn Xuân Áng, đã huy động tuần phu phát cây lục soát. Với tinh thần cách mạng và bảo vệ cán bộ, đội ngũ dân vệ của làng Cổ Tế đã trở thành lực lượng bao bọc, che dấu, bảo vệ các chiến sỹ Cách mạng. Hôm đó, ông Bùi Văn Kỳ thấy một chiến sĩ chiến khu núp trong bụi cây, ông bình tĩnh chặt cây xung quanh rồi lấp thêm cành cây vào bụi cây để che dấu, bảo toàn cho chiến sỹ chiến khu. Sau đó, Nhân dân tổng Cổ Tế đã bố trí cho các chiến sỹ ở ẩn trên đồi Dọc Chó là vùng đồi núi có cây rừng dày đặc, giáp ranh tổng Cổ Tế với Cẩm Thủy. Hàng ngày, lợi dụng việc đi làm nương để tiếp tế cho các chiến sỹ. Có những gia đình, cho con gái của mình đi chơi nhà anh em xa, đưa chiến sỹ nữ về nhà mình sống để che mắt địch. Chỉ bắt được một số chiến sỹ chiến khu, bọn địch càng lồng lộn lùng sục ráo riết. Nhiều người trong tổng Cổ Tế bị bắt và tra tấn dã man nhưng Nhân dân không khai báo, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Trong khi các chiến sỹ chiến khu kịp mở rộng vùng ẩn náu và nhận nhiệm vụ mới thì bọn địch càng tăng cường bắt bớ, đàn áp Nhân dân tổng Cổ Tế. Những người thôn Cổ Tế bị bắt như ông Trần Cừu(1), Phạm Văn Quát, Phạm Thanh Khương bị bắt và đưa vào nhà giam Thanh Hóa. Một số người bị giam ở nhà giam huyện Thạch Thành như: Phạm Văn Đăng, Vũ Duy Biếm, Vũ Văn Phiếm, Trần Đình Ngỡi, Phạm Văn Súc và ông Nguyễn Bá Cường… họ bị tra khảo tàn nhẫn nhưng không khai thác được gì, buộc chúng phải thả.

Như vậy, Chiến khu Ngọc Trạo bị địch khủng bố, phong trào cách mạng Thạch Thành tạm thời lắng xuống. Giai đoạn này, nhiều chiến sỹ cách mạng và đồng bào yêu nước từ Cẩm Bào bị địch bắt và giam tại nhà lao Thanh Hóa.

Cũng trong thời gian này, ở tổng Cổ Tế, bọn phát xít Nhật - Pháp đàn áp Nhân dân trong tổng. Nhân dân vừa phải nai lưng đóng góp cho giặc Nhật, vừa phải chịu mùa màng thất bát, bị bọn lý dịch tăng cường đục khoét. Hằng ngày, từng đoàn người bồng bế, dắt díu nhau lên rừng đào măng và củ rừng để kiếm sống qua ngày. Vì vậy, trong tổng đã có nhiều đồng bào chết dọc đường. Nhân dân Cổ Tế không còn con đường nào khác là vùng dậy chống phát xít Nhật - Pháp giành tự do, độc lập.

 Tiếp thu tinh thần Nghị quyết Trung ương Đảng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Thanh Hóa, cuộc vận động cách mạng của Nhân dân Thạch Thành bước vào giai đoạn mới. Nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn này là tập trung chống kẻ thù nguy hiểm và trực tiếp là phát xít Nhật - Pháp, kiên quyết chống lại những luận điệu tuyên truyền lừa bịp của bọn thân Nhật và các đảng phái phản động của chúng, mở rộng Mặt trận Việt Minh, thống nhất lãnh đạo và hành động.

Đến giữa năm 1944, cuộc vận động thành lập các cơ sở Việt Minh được phát triển mạnh mẽ trong toàn huyện. Dưới sự chỉ đạo của tổ chức cơ sở Việt Minh, Nhân dân tổng Cổ Tế đã tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống Nhật như cướp đất trồng đay, chống thuế, chống cân thóc tạ, không bán bông cho Nhật, đánh đuổi bọn cai lệ khi chúng về các làng thu thuế…

Tháng 6 năm 1944, tiểu đội tự vệ nữ thôn Cổ Tế được thành lập, bà Vũ Thị Thừ làm đội trưởng. Tiểu đội này gồm những thanh nữ khỏe mạnh, nhanh nhẹn và dũng cảm. Họ thường tiếp tế cho các đội du kích nam luyện tập, kiểm tra thu dọn hiện trường cẩn thận đảm bảo bí mật và luyện tập võ thuật tự vệ chiến đấu.

     Ngày 27 tháng 5 năm 1945, tại xã Thành Hưng, Huyện bộ Việt Minh Thạch Thành chính thức thành lập, do đồng chí Phạm Văn Giản phụ trách(1). Vừa thành lập, Huyện bộ Việt Minh Thạch Thành đã đề ra các nhiệm vụ chuẩn bị khởi nghĩa là phổ biến sâu rộng các chủ trương, chính sách Việt Minh; phát triển nhanh lực lượng tự vệ, chuẩn bị vũ khí; cổ động quần chúng đấu tranh, giữ thóc gạo, giải quyết nạn đói. “Đêm 26 tháng 6 năm 1945, bọn Đại Việt lại tổ chức cuộc biểu diễn văn nghệ tại đình làng Cổ Tế nhằm gây ảnh hưởng và lôi kéo quần chúng. Khi buổi biểu diễn bắt đầu, đồng chí Võ Nhất Quyết, đại diện cho Việt Minh huyện, đã lên diễn thuyết kêu gọi Nhân dân không nộp thuế, không đi phu, đi lính cho Nhật, ủng hộ đường lối cứu nước của Việt Minh và kêu gọi những người lầm đường trong tổ chức Đại Việt trở về với Nhân dân”(1). Sau các cuộc diễn thuyết, ảnh hưởng và uy tín của cách mạng ngày càng lan rộng trong quần chúng.

Tháng 7 năm 1945, Huyện bộ Việt Minh chủ trương thành lập các Tổng ủy Việt Minh. Tuy nhiên, do chưa đủ điều kiện thành lập, tổng Cổ Tế cùng với 2 tổng: Phú Ổ, Tự Cường vẫn chưa thành lập Tổng ủy Việt Minh. Mặc dù vậy, phong trào cách mạng tổng Cổ Tế vẫn tiếp tục phát triển.

Cũng trong tháng 7 năm 1945, phong trào đấu tranh chống thuế và vận động chánh tổng, lý trưởng giao nộp đồng triện cho cách mạng lan khắp toàn huyện Thạch Thành. Trong không khí sôi động của phong trào, quần chúng Nhân dân tổng Cổ Tế đã trực diện đấu tranh với chánh tổng, lý trưởng không nộp thóc, không bán bông cho giặc Nhật, tìm mọi cách trì hoãn thuế, vận động gửi thóc cho Việt Minh, đẩy mạnh phong trào “Chống đói và cứu đói”.

Vào những ngày đầu tháng 8 năm 1945, tại huyện miền núi Thạch Thành khí thế cách mạng cũng rầm rộ, sôi động không kém vùng đồng bằng. Ngày 12 tháng 8, Huyện ủy Việt Minh Thạch Thành cùng Vĩnh Lộc tổ chức cuộc mít tinh lớn với 200 tự vệ tham gia cùng hàng ngàn đồng bào tại chợ Kim Tân. Sau đó, lực lượng quần chúng dưới sự lãnh đạo của Việt Minh huyện đã tiếp tục biểu tình, tuần hành thị uy xung quanh huyện lỵ rồi tỏa về các nơi để tuyên truyền cho cách mạng(2).

 Chiều ngày 15 tháng 8, trong khi hội nghị Tỉnh ủy mở rộng đang diễn ra tại nhà ông Tô Đình Bảng làng Mao Xá (nay thuộc xã Thiệu Toán - Thiệu Hóa) để quyết định chủ trương và kế hoạch khởi nghĩa thì nhận được tin Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện (qua báo Đông Pháp). Hội nghị nhận định thời cơ khởi nghĩa đã đến, mặc dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, nhưng căn cứ vào Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trung ương để quyết định phát lệnh khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh vào 12 giờ đêm 18 rạng sáng ngày 19 tháng 8 năm 1945. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa gồm 7 đồng chí và Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh gồm 7 ủy viên do đồng chí Lê Tất Đắc làm trưởng ban kiêm Chủ tịch. Hội nghị phân công cán bộ lãnh đạo khởi nghĩa ở các phủ, huyện.

    Ở huyện Thạch Thành, ngày 17 tháng 8 năm 1945, nhận được chủ trương khởi nghĩa của tỉnh, hội nghị cán bộ Việt Minh huyện được triệu tập để bàn kế hoạch triển khai lực lượng và thành lập Ủy ban khởi nghĩa huyện do đồng chí Nguyễn Trí Đạo làm Trưởng ban. Theo kế hoạch, lực lượng tấn công huyện lỵ gồm 3 trung đội tự vệ chiến đấu của các tổng Trường Cát và Hòa Luật do các đồng chí Nguyễn Trí Đạo, Lê Tiến Bộ và Phạm Văn Giản làm trung đội trưởng. Ở các tuyến giao thông chính từ Nho Quan vào, từ Hà Trung, Vĩnh Lộc sang, đều bố trí các đơn vị tự vệ phục kích nhằm chặn đường chi viện của địch.

 Đêm 18 rạng sáng ngày 19 tháng 8 năm 1945, lệnh của Ủy ban khởi nghĩa huyện truyền đi khắp các tổng trong toàn huyện. Nhân dân tổng Cổ Tế nổi trống chiêng từ làng này sang làng khác, người dân tay cầm gậy gộc, giáo mác rầm rộ kéo đi dưới cờ đỏ sao vàng quyết giành được độc lập tự do. Dân quân, du kích được hiệu lệnh Ủy ban khởi nghĩa đã nhanh chóng bao vây phủ đường làm áp lực với địch buộc chúng phải giao chính quyền.

Trước sức tấn công của quân khởi nghĩa, tri huyện Thạch Thành cùng toàn bộ bọn nha lại, binh lính đã nhanh chóng hạ vũ khí đầu hàng và giao nộp sổ sách, con dấu, giấy tờ cho Ủy ban khởi nghĩa. Chỉ trong mấy giờ đồng hồ, ta đã làm chủ hoàn toàn huyện lỵ, giành chính quyền về tay nhân dân mà hầu như không đổ máu. Chính quyền tay sai của địch ở các tổng, xã cũng đổ theo. Các tổng, lý phải đem triện đồng ra nộp cho Nhân dân.

   Chiều ngày 19 tháng 8, nhân dân trong huyện từ các nẻo đường kéo về huyện lỵ Kim Tân dự mít tinh mừng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Ngày 21/8/1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Thạch Thành thành lập gồm 5 thành viên, do đồng chí Nguyễn Chí Đạo làm Chủ tịch. Trong buổi ra mắt Nhân dân đầu tiên, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn của quần chúng nhằm biểu dương lực lượng, tạo khí thế cách mạng. Cuộc mít tinh có hàng ngàn quần chúng Nhân dân từ các thôn, làng giương cao cờ đỏ sao vàng, băng rôn, khẩu hiệu tập trung về huyện lỵ dự mít tinh chào mừng thắng lợi của chính quyền cách mạng và chào đón chính quyền mới do nhân dân làm chủ. Tại cuộc mít tinh, đồng chí Nguyễn Chí Đạo tuyên bố xóa bỏ vĩnh viễn ách thống trị của bọn thực dân, phong kiến và chế độ lang đạo bao đời đè nặng lên đầu, lên cổ đồng bào các dân tộc Thạch Thành; đồng thời kêu gọi toàn thể Nhân dân trong huyện phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù, tập trung xây dựng và giữ vững chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc”, toàn huyện đã tích cực xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời còn cử một số cán bộ về các địa phương kết hợp với chính quyền cơ sở tổ chức thu hủy các con dấu, thẻ bài, bằng sắc và tuyên bố xóa bỏ tất cả những đặc quyền đặc lợi của bọn chức sắc tại địa phương.

   Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Mặt trận Việt Minh, hệ thống chính quyền cách mạng được thành lập trên địa bàn toàn huyện. Thắng lợi lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở huyện Thạch Thành góp phần cùng cả tỉnh, cả nước tạo ra bước ngoặt lịch sử vĩ đại trong sự phát triển của dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Từ đây, cùng với cả nước, Nhân dân Thạch Long từ thân phận của người nô lệ mất nước trở thành công dân của một nước độc lập, tự do. Phấn khởi trước những thành quả giành được từ Cách mạng tháng Tám, Nhân dân các làng của xã Thạch Long tiếp tục cùng Nhân dân trong huyện, trong tỉnh và cả nước bước vào thời kỳ xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân và tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn.

 III. THẠCH LONG TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN VÀ THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946 - 1954)

1- Củng cố, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân và tổ chức đời sống mới (tháng 9/1945 - tháng 12/1946)

Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lật đổ hoàn toàn ách thống trị của chế độ thực dân và phong kiến, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ tháng 9 năm 1945, chính quyền cách mạng ở các tổng, làng được thành lập thay thế cho bộ máy cai trị cũ. Mặt trận Việt Minh được kiện toàn, nhân dân phấn khởi tích cực tham gia xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng. Nhưng vừa mới được thành lập, chính quyền cách mạng đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thách thức. Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, phát xít Nhật và phong kiến phản động để lại hậu quả hết sức nặng nề. Nền kinh tế hết sức què quặt, tài chính trống rỗng, trên 90% dân số mù chữ. Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đang là mối nguy cơ đe dọa lớn đến vận mệnh của dân tộc.

Ở miền Bắc, ngày 15 tháng 9 năm 1945, hai mươi vạn quân Tưởng núp dưới chiêu bài quân Đồng Minh vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật đến Hà Nội, cùng với các đảng phái phản động “Việt quốc”, “Việt cách” nổi dậy hòng lật đổ chính quyền cách mạng. Trong khi đó ở miền Nam, ngày 23 tháng 9 năm 1945, được quân Anh giúp đỡ, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định, quyết tâm xâm chiếm nước ta một lần nữa. Lúc này, vận mệnh quốc gia ví như “ngàn cân treo sợi tóc”.

Trước tình hình đó, để tránh mũi nhọn tấn công của kẻ thù, ngày 11 tháng 11 năm 1945, Đảng ta phải đi vào hoạt động bí mật, song lại tuyên bố tự giải tán nhằm loại bỏ tất cả những điều kiện, hiểu lầm ở ngoài nước và trong nước có thể gây trở ngại cho tiền đồ giải phóng của nước nhà và chỉ để lại một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”.

Tại Thanh Hóa, cuối tháng 11 năm 1945, một trung đoàn quân đội Tưởng Giới Thạch lấy danh nghĩa quân Đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật kéo vào thị xã Thanh Hóa hòng gây bạo loạn lật đổ chính quyền cách mạng, theo đó các phần tử phản động do chúng lập ra lăm le ngóc đầu dậy âm mưu chống phá cách mạng, phá rối hoạt động của chính quyền nhân dân.

Tại huyện Thạch Thành, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám cũng đã tạo ra động lực mạnh mẽ đối với tất cả cán bộ, đảng viên và Nhân dân toàn huyện. huyện. Từ đây, nhiệm vụ trọng tâm, trước mắt đặt ra cho huyện Thạch Thành là giải tán chính quyền cũ, xây dựng hệ thống chính quyền nhân dân. Tại các địa phương, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời đã nhanh chóng được thành lập thay thế hệ thống chính quyền cũ.

Đối với Thạch Long, hòa chung trong không khí Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhân dân tự hào, phấn khởi đón nhận cuộc sống mới trong trong hòa bình, tự do. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời ở các làng được thành lập, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể quần chúng được kiện toàn làm nhiệm vụ quản lý làng, thay thế cho bộ máy cai trị cũ.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước bỏ cấp tổng thành lập đơn vị hành chính cấp xã. Theo đó, tổng Cổ Tế được đổi tên thành xã Cẩm Bào. Bấy giờ, xã Cẩm Bào gồm 5 làng là: Cẩm Bào, Xuân Áng, Yên Phong, Cự Lý, Cổ Tế. Xã Cẩm Bào sau khi ra đời cũng đã thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời do đồng chí Trần Cừu làm Chủ tịch xã đảng viên, đồng chí Phạm Viết Trác (làng Đồng Xá) làm Phó Chủ tịch.

Ở các làng, theo sự chỉ định của cán bộ và Nhân dân trong xã, mỗi làng có trưởng thôn thay thế các vị trí lý trưởng dưới chế độ phong kiến trước kia: Làng Sành (nay là làng Duyên Linh) do đồng chí Phạm Văn Nê làm trưởng thôn; làng Đồng Xá (nay là làng Đồng Trạch) do đồng chí Nguyễn Xuân Cơn làm trưởng thôn; làng Phú Môn (nay là làng Cự Môn) do đồng chí Bùi Văn Mùi làm trưởng thôn; làng Phú Ổ do đồng chí Trịnh Đình Cơn làm trưởng thôn; làng Dương Giao do đồng chí Phạm Văn Đại làm trưởng thôn. Sau này, làng Đồng Châu chuyển về xã Việt Bắc (Thạch Bình ngày nay).

Cuối năm 1945, tổng Phú Ổ thuộc huyện Thạch Thành được đổi thành xã Kiến Hưng, sau đó sáp nhập với xã Cẩm Bào (trước đây là tổng Cổ Tế) vào đầu năm 1947, lấy tên là xã Thạch Long. Tên gọi Thạch Long có từ đây. Bấy giờ, xã Thạch Long bao gồm các làng: Dương Giao, Đống Châu, Phú Ổ, Cự Môn, Đồng Trạch, Duyên Linh(1).

Do mới ra đời, bộ máy chính quyền lâm thời còn rất đơn giản nhưng về cơ bản đã có thể lãnh đạo nhân dân trong xã khắc phục hậu quả nạn đói năm 1945, bảo vệ làng xã và xây dựng cuộc sống mới, cuộc sống do chính nhân dân làm chủ.

Cùng với việc xây dựng và cải thiện hệ thống chính quyền, Mặt trận Việt Minh và các tổ chức chính quyền nhân dân quần chúng được xây dựng hầu hết ở các làng trong xã như Mặt trận Việt Minh, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc… Sau khi các tổ chức ra đời, quần chúng nhân dân đã hăng hái tích cực tham gia, ban ngày thì lao động sản xuất, ban đêm dân quân tập luyện, thiếu niên thì tập hát múa… Sự ra đời của các tổ chức được xem là những thắng lợi quan trọng bước đầu tạo nên sự phát triển cho các phong trào cách mạng ở xã Kiến Hưng trong thời gian tiếp theo.

Thời gian đầu sau khi thành lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gặp muôn vàn khó khăn. Trong đó khó khăn lớn nhất lúc này của Nhà nước ta là “Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”. Sau khi giành chính quyền, nhân dân huyện Thạch Thành nói chung và xã Cẩm Bào nói riêng gánh chịu hậu quả bọn Pháp - Nhật để lại. Nhiều địa phương thiếu lương thực, nhân dân rơi vào cảnh đói kém, rải rác ở một số địa phương có người chết đói.

Cùng với nạn đói, Nhân dân Thạch Thành còn chịu nạn mù chữ. Thời kỳ này, Thạch Thành có 97% dân số mù chữ, một số xã ở tây bắc huyện hầu như không có người dân nào được đi học. Nằm trong khu vực đông dân mù chữ, đại đa số người dân Cẩm Bào cũng không biết chữ. Trong xã, những người đi học để biết chữ rất hiếm.

Trước tình hình khó khăn của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách(1) tại phiên họp Chính phủ ngày 03/9/1945. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời và Mặt trận Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân Thạch Thành tích cực tham gia thực hiện 3 nhiệm vụ cấp bách: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

Dưới sự lãnh đạo của Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời và Mặt trận Việt Minh, nhân dân xã Cẩm Bào cũng đã khẩn trương triển khai thực hiện 3 nhiệm vụ: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

Phong trào“diệt giặc đói”: Ủy ban cách mạng lâm thời đã kết hợp chặt chẽ với Mặt trận Việt Minh cùng các tổ chức đoàn thể thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm ổn định đời sống nhân dân, phát triển sản xuất. Thực hiện khẩu hiệu “Cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, một tháng nhịn ăn ba bữa” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xã Cẩm Bào đã phát động nhân dân học tập noi theo tấm gương của Người, phát động khẩu hiệu tới từng xóm, làng. Với tinh thần “Nhường cơm xẻ áo”, “Lá lành đùm lá rách”, quần chúng nhân dân đã tự nguyện quyên góp gạo, tiền bạc ủng hộ những người bị đói. Đối với đồng bào từ nơi khác đến Cẩm Bào kiếm sống, chính quyền xã đã tập hợp danh sách phân bổ về các làng, vận động từng gia đình đảm nhiệm giúp đỡ. Nhiều người sau khi được cưu mạng giúp đỡ đã nhận người giúp đỡ làm cha, mẹ nuôi.

Để giải quyết tận gốc nạn đói, toàn xã đã thực hiện phong trào “Tấc đất, tấc vàng”, toàn dân tích cực hăng hái tham gia lao động sản xuất. Nhân dân trong xã vừa tích cực trồng lúa và các loại rau màu, đồng thời còn tích cực khai khẩn đất hoang để trồng, ngô, khoai, sắn. Hưởng ứng chủ trương xây dựng quỹ độc lập và xây dựng phong trào phát động “Tuần lễ vàng” của Chính phủ, chính quyền huyện Thạch Thành đã thành lập Ban vận động quyên góp do đồng chí Nguyễn Trí Đạo làm Trưởng ban. Thực hiện phong trào quyên góp do Ban vận động tổ chức, nhân dân xã Cẩm Bào đã tích cực tham gia quyên góp cho Chính phủ. Đồng thời, thực hiện Sắc lệnh số 04-SL/TW ngày 04/9/1945 của Chính phủ về thành lập Ban vận động xây dựng quỹ lành, nhiều gia đình Cẩm Bào đã ủng hộ Chính phủ mâm đồng, nồi đồng, ông Phạm Văn Giữ (làng Cổ Tế) ủng hộ vàng, đứng thứ nhì huyện.

 Cùng với nhiều biện pháp cấp bách để ổn định đời sống nhân dân cũng như ủng hộ tiền, vàng cho Chính phủ lâm thời mới thành lập, chính quyền và các tổ chức đoàn thể đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền nếp sống mới, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan như ma chay, cưới hỏi, đồng thời đẩy mạnh công tác giữ gìn trật tự trị an, lực lượng tự vệ, vũ trang được củng cố và được tổ chức lại từ huyện đến cơ sở. Trong xã có đội tự vệ, trong làng cũng xây dựng đội tự vệ.

Phong trào “diệt giặc dốt”: Sau khi giành chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi Nhân dân cả nước tham gia xóa nạn mù chữ: “Mỗi người Việt Nam phải biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà, những người biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, những người chưa biết chữ hãy gắng học cho biết chữ, vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh, chị bảo, cha mẹ chưa biết thì con bảo, phụ nữ càng cần phải học”. Hưởng ứng lời kêu gọi “Chống thất học” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ huyện Thạch Thành đã chỉ đạo thành lập Ban Bình dân học vụ huyện do thầy giáo Trương Đình Thành làm Trưởng ban. Dưới sự chỉ đạo của Ban Bình dân học vụ huyện, xã Cẩm Bào đã thành lập Ban Bình dân học vụ xã do đồng chí Phạm Văn Nhượng làm Trưởng ban. Sau khi thành lập Ban Bình dân học vụ xã, Ban Bình dân học vụ tại các làng cũng được thành lập vận động tất cả người dân trong các xóm làng tham gia học chữ. Đội ngũ giáo viên của các lớp Bình dân học vụ là những người biết chữ Quốc ngữ. Họ tham gia dạy học không có lương, thường tổ chức dạy theo nhóm. Giáo viên giảng dạy sẽ được huyện bồi dưỡng ngắn ngày nhằm đáp ứng nhu cầu dạy học cho Nhân dân. Nhân dân trong xã khắc phục mọi khó khăn, nô nức tới các lớp học. Người dạy học không quản ngày, đêm và dạy học với nhiều phương pháp phong phú. Ngoài thời gian dạy và học chủ yếu vào buổi trưa, buổi tối, phù hợp thời gian và công việc sản xuất của Nhân dân. Ngoài cách dạy trên lớp, người dân còn sáng tạo ra nhiều phương pháp học khác như tranh thủ khi lao động sản xuất, mọi người đi trước viết lên ngón chân người nhau để tập đọc, hay khi dạy các con chữ, giáo viên đã đọc các kiểu văn vần miêu tả các con chữ để người học dễ nhận biết mặt chữ như: “Chữ O tròn như quả trứng gà, Ô thì đội mũ, Ơ thời thêm râu...” Nhờ các phương pháp dạy học, mọi người đều tự giác học, học mọi lúc mọi nơi. Theo tinh thần “người biết dạy cho người không biết, người biết nhiều dạy cho người biết ít”, Nhân dân trong xã dần dần đã biết đọc, biết viết. Đến năm 1948, xã đã được công nhận là xã xóa nạn mù chữ.

  Như vậy phong trào “diệt giặc dốt” bước đầu đã đạt được một số thành tựu nhất định. Phong trào đã cơ bản xóa bỏ tệ nạn mù chữ trong Nhân dân, mở mang tri thức cho người dân trong xã. Ngoài ý nghĩa mở mang dân trí, phong trào còn là một thắng lợi to lớn về chính trị, nó tạo điều kiện để Nhân dân tham gia xây dựng, quản lý chính quyền và thực hiện quyền dân chủ.

Phong trào“diệt giặc ngoại xâm”: Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ, mở đầu cho cuộc xâm lược lần thứ 2 của chúng trên đất nước ta. Hưởng ứng phong trào hướng về miền Nam, Mặt trận Việt Minh và Ủy ban nhân dân cách mạng huyện Thạch Thành tổ chức cuộc mít tinh lớn tại Bái Xim (thuộc xã Thành Tiến ngày nay) với đầy đủ các tầng lớp nhân dân tham gia, đặc biệt là thanh niên. Tại lễ mít tinh, đồng chí Nguyễn Trí Đạo thay mặt Ủy ban kháng chiến đọc bài phát biểu vạch trần những âm mưu và hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, ca ngợi tinh thần chiến đấu ngoan cường của nhân dân miền Nam. Đồng chí đã kêu gọi nhân dân Thạch Thành ủng hộ cuộc kháng chiến của Nhân dân Nam Bộ theo tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, kêu gọi thanh niên Thạch Thành hãy tình nguyện lên đường vào Nam chiến đấu. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, một số thanh niên Cẩm Bào đã tình nguyện lên đường xây dựng lực lượng vũ trang và lực lượng tự vệ của huyện.

  Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Thạch Thành, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa nhận thấy cần phải có tổ chức Đảng đứng ra để lãnh đạo chính quyền, tiếp tục đẩy lùi những khó khăn trước mắt, phát huy những thành quả cách mạng mà nhân dân Thạch Thành đã đạt được, Đảng bộ Thanh Hóa đã quyết định thành lập Đảng bộ huyện Thạch Thành. Tháng 11 năm 1945, đồng chí Đặng Văn Hỷ, Tỉnh ủy viên, đã về Thạch Thành tổ chức kết nạp đảng viên mới và thành lập Huyện ủy lâm thời. Ngày 10 tháng 11 năm 1945, Huyện ủy Thạch Thành chính thức được thành lập, đồng chí Phạm Văn Giản được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy lâm thời.

Sự ra đời của Huyện ủy Thạch Thành đã dấu bước chuyển biến mạnh mẽ, khẳng định sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ cũng như sự lớn mạnh của phong trào cách mạng của huyện. Từ đây, phong trào cách mạng của Nhân dân Thạch Thành được triển khai nhanh chóng và hiệu quả hơn, hòa chung trong phong trào cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.

  Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thạch Thành, phong trào cách mạng của Cẩm Bào đã từng bước phát triển, vững mạnh. Sự phát triển của phong trào cách mạng Cẩm Bào chuẩn bị cho việc mở rộng kết nạp đảng viên mới, tiến tới thành lập Chi bộ Đảng. Cuối năm 1945 tổng Phú Ổ thuộc huyện Thạch Thành được đổi thành xã Kiến Hưng, đầu năm 1947 sáp nhập với xã Cẩm Bào, trước đây là tổng Cổ Tế lấy tên là xã Thạch Long gồm các làng Cẩm Bào, Xuân Áng, Yên Phong, Dương Giao, Cự Lý, Đống Châu, Phú Ổ, Cự Môn, Đồng Trạch, Duyên Linh, Cổ Tế.

Ngày 01 tháng 01 năm 1946, Hội nghị thành lập Chi bộ Sắt,(1) do đồng chí Phạm Văn Dởn - Huyện ủy viên chủ trì, được tiến hành tại đình làng Cẩm Bào. Chi bộ Sắt phụ trách địa bàn hai xã Cẩm Bào và Kiến Hưng. Huyện ủy chỉ định Bí thư chi bộ là đồng chí Phạm Văn Dinh (quê ở Cẩm Bào), đồng chí Vũ Văn Bọc (quê ở Cổ Tế) làm chi ủy viên, đồng chí Phạm Văn Quát (quê ở Cổ Tế) tổ trưởng Tổ đảng Cổ Tế.

 Sự ra đời của Chi bộ Sắt đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc của phong trào cách mạng, mở ra một thời kỳ mới cho nhân dân trong xã. Từ đây, nhân dân xã Cẩm Bào có một tổ chức Đảng trực tiếp lãnh đạo công cuộc củng cố chính quyền, xây dựng đời sống mới và tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

  Sau khi giành lại chính quyền từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật, chính quyền mới của nhân dân ta còn non trẻ. Lợi dụng điều đó, thực dân Pháp với bản chất hiếu chiến và âm mưu thâm độc lại tiếp tục tiến hành xâm lược đất nước ta một lần nữa. Vào những ngày cuối năm 1946, sau khi trắng trợn xóa bỏ đàm phán hòa bình, thực dân Pháp đánh chiếm Hải Phòng và Hà Nội. Trước tình hình đó, ngày 18 và 19 tháng 12 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp và quyết định phát động cả nước kháng chiến.

   Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”:“… Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệChúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước…”(1). Ngày 22/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”. Bản Chỉ thị đã thể hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là “cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”.

   Đáp lời kêu gọi “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến” của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược với tư thế hiên ngang của người làm chủ đất nước.

   Như vậy, chỉ trong vòng 15 tháng kể từ ngày nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (từ tháng 9/1945 đến cuối tháng 12/1946), dưới sự lãnh đạo của chính quyền, Mặt trận Việt Minh, cán bộ và nhân dân các làng (xã Thạch Long) với lòng yêu nước nồng nàn đã vươn lên vượt qua mọi khó khăn thách thức, đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, bảo vệ, củng cố chính quyền vững mạnh và khẩn trương chuẩn bị nhân lực, vật lực bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

  2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Thạch Long khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến (1947 - 1949)

   Giữa lúc nhân dân các dân tộc trong tỉnh đang cùng cả nước gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến, ngày 20 tháng 2 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên vào thăm Thanh Hóa. Đây là sự kiện lịch sử trọng đại, niềm vinh dự tự hào to lớn của Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà. Với tầm nhìn chiến lược, Người giao cho Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa: “ Tỉnh Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì phải làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải là kiểu mẫu. Làm một người kiểu mẫu, một nhà kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu. Quyết tâm làm thì sẽ thành kiểu mẫu…Tôi kêu gọi đồng bào trong tỉnh xắn tay áo làm đi, lần sau về đây, tôi sẽ thấy mỗi người là một người kiểu mẫu”(1).

 Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh nêu cao quyết tâm xây dựng tỉnh nhà thành hậu phương vững mạnh để kịp thời chi viện sức người, sức của cho chiến trường. Đồng thời tổ chức chiến đấu trong mọi tình huống bảo vệ hậu phương.

Thạch Thành là vùng tự do không có quân Pháp đóng giữ theo Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 nhưng lại là vùng có vị trí chiến lược quan trọng. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với toàn bộ cán bộ, đảng viên và Nhân dân Thạch Thành là phải đề cao cảnh giác, nhanh chóng chuyển các hoạt động kinh tế - xã hội sang thời chiến.

Để hoàn thành nhiệm vụ, xã Cẩm Bào tích cực chuẩn bị mọi công tác chuẩn bị cho chiến tranh xảy ra. Xã đã đẩy mạnh phong trào cách mạng, nhanh chóng củng cố, phát triển lực lượng tự vệ luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương làng xã, tiếp tục vận động Nhân dân góp sức người, sức của cho các chiến trường miền Nam.

Đầu năm 1947, xã Cẩm Bào sáp nhập với xã Kiến Hưng lấy tên là xã Thạch Long. Tên gọi Thạch Long xuất hiện từ đây. Lúc này, xã Thạch Long gồm các làng: Cẩm Bào, Xuân Áng, Yên Phong, Dương Giao, Cự Lý, Đống Châu, Phú Ổ, Cự Môn, Đồng Trạch, Duyên Linh, Cổ Tế.

Cuối tháng 3 năm 1947, trước không khí sôi nổi, khẩn trương của những ngày đầu kháng chiến, Đảng bộ Thạch Thành đã đưa ra phương hướng mới. Đó là đẩy mạnh việc chỉ đạo nhân dân thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc của Trung ương, tiếp tục củng cố cơ sở Đảng và hệ thống chính quyền, đoàn thể; xây dựng lực lượng vũ trang, quân dân, tự vệ đảm bảo tác chiến tại chỗ và bổ sung lực lượng cho tiền tuyến; tiếp tục phát triển sản xuất, tự túc về lương thực, thực phẩm và đóng góp cho các chiến trường.

Với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, đòi hỏi phải có sự lớn mạnh cả về quy mô tổ chức và số lượng đảng viên để lãnh đạo xã một cách toàn diện. Trước yêu cầu ấy, cũng như nhận được sự dìu dắt của cán bộ Việt Minh tới đội ngũ cán bộ cốt cán các thôn, xóm, một số đồng chí ưu tú xã Thạch Long đã được kết nạp Đảng 06 đảng viên gồm đồng chí Nguyễn Văn Diễn, Phạm Văn Tơn, Phạm Văn Nê, Phạm Viết Trác, Bùi Văn Kiến, Bùi Văn Sâm tham gia sinh hoạt trong chi bộ Sắt.

Giữa năm 1947, Chi bộ Sắt tổ chức Đại hội lần thứ II (1947 - 1948). Đồng chí Phạm Văn Dinh tiếp tục giữ chức vụ Bí thư Chi bộ.

  Tháng 4 năm 1947 Ủy ban hành chính huyện Thạch Thành quyết định Sáp nhập hai xã Kiến Hưng và Cẩm Bào là một và lấy tên là xã Thạch Long, sau sáp nhập đồng chí Phạm Văn Tơn từ Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Kiến Hưng sang làm Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Thạch Long. Từ tháng 4 năm 1947 đến tháng 12 năm 1952 đồng thời chi ủy viên chi bộ Sắt. Mặt trận Việt Minh do đồng chí Bùi Văn Kiến thôn Cự Môn làm chủ nhiệm. Đồng thời nhằm tăng cường sức mạnh cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tháng 4/1947, Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết “Cấp tốc xúc tiến việc tổ chức huấn luyện võ trang và lãnh đạo dân quân”. Thực hiện Nghị quyết ngày 10/4/1947, Huyện đội Thạch Thành được thành lập, do đồng chí Tạ Quang Đồng làm Tiểu đội trưởng. Cùng với việc thành lập Huyện đội, xã Thạch Long đã thành lập Xã đội và thành lập Thôn đội ở các thôn. Sự ra đời của Huyện đội, Xã đội và Thôn đội đã thể hiện sự tổ chức chặt chẽ, vững mạnh của lực lượng dân quân tự vệ. Sau khi ra đời, việc luyện tập của các lực lượng được diễn ra thường xuyên, bảo đảm khả năng tác chiến trong mọi trường hợp.

Giai đoạn này, Thạch Thành cũng tích cực xây dựng làng kháng chiến. Sau khi cho xây dựng thí điểm ở một số làng, huyện đã mở rộng xây dựng ở nhiều làng khác, trong đó có Xuân Áng, Cổ Tế của Thạch Long.

Để tăng nhanh năng lực sản xuất phục vụ cuộc kháng chiến, huyện đẩy mạnh việc vận động thành lập các tổ đổi công. Xã Thạch Long cũng đã cho xây dựng các tổ đổi công. Tổ đổi công ra đời đã lôi cuốn nhiều hộ nông dân tham gia. Các hộ nông dân trong xã chủ động nguồn giống, đắp đê, làm thủy lợi nhỏ bảo đảm gieo cấy hết diện tích. Đối với nương rẫy, nông dân mở rộng nhiều diện tích trồng ngô, khoai, sắn. Với những thành quả đạt được, sản lượng lương thực của Thạch Long được nâng lên đáng kể.

Tháng 3 năm 1948, thực hiện chủ trương của Đảng bộ Thanh Hóa về xây dựng Thanh Hóa thành hậu phương vững chắc, Đảng bộ Thạch Thành đã đề ra nhiệm vụ tăng cường đẩy mạnh sản xuất, cấy hết diện tích. Đối với nương rẫy, nông dân mở rộng nhiều diện tích trồng ngô, khoai, sắn. Với những thành quả đạt được, sản lượng lương thực của xã Thạch Long được nâng lên đáng kể. Bên cạnh phong trào thi đua sản xuất, Đảng bộ huyện chú trọng phát triển lực lượng vũ trang gồm bộ đội tập trung và dân quân, du kích nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ quê hương. Thạch Long đã tổ chức huấn luyện Dân quân diu kích trong thời gian một tháng. Đồng thời tích cực hỗ trợ lương thực, thực phẩm cho lực lượng dân quân tham gia huấn luyện.

Tháng 5 năm 1948, Chi bộ Sắt tổ chức Đại hội lần thứ III (1948 - 1949), đồng chí Phạm Văn Dinh tiếp tục giữ chức vụ Bí thư Chi bộ.

Sau Đại hội, thực hiện nhiệm vụ của Đảng bộ huyện Thạch Thành, xã Thạch Long đã tổ chức huấn luyện cho dân quân, du kích trong thời gian một tháng. Để có lương thực, thực phẩm cho dân quân, du kích sinh hoạt tập trung huấn luyện, ngoài phần tự lực, Ủy ban hành chính xã đã kêu gọi Nhân dân ủng hộ. Thực hiện lời kêu gọi, Nhân dân xã Thạch Long tích cực hỗ trợ lương thực, thực phẩm cho lực lượng dân quân tham gia huấn luyện.

Để nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật và tinh thần sẵn sàng bảo vệ quê hương, bảo vệ vùng tự do kháng chiến, sau khi đại đội chủ lực của huyện thành lập tháng 02 năm 1948, Thạch Thành đã tổ chức buổi diễn tập quân sự trong toàn huyện tại làng Án Đổ (Thạch Sơn). Dân quân, du kích xã Thạch Long cũng tham gia đợt diễn tập này cùng với đại đội của huyện và hàng nghìn quân du kích của các xã khác, tham gia diễn tập gồm các đồng chí: Lưu Trọng ích, Phạm Văn Kếnh, Nguyễn Văn Kích. Đồng chí Nguyễn Văn Kích làm Phó du kích xã. Trong diễn tập, các môn quân sự như chạy vũ trang, bắn súng, hành quân, đội ngũ, thao tác các loại vũ khí thông thường đều được kiểm tra. Qua diễn tập, xã Thạch Long cùng với bốn xã Thành Hưng, Thạch Bình, Thành Trực, Thành Minh xếp loại khá được chọn chuẩn bị tham gia diễn tập toàn tỉnh.

Theo Lệnh động viên của Chính phủ cuối năm 1948 đến năm 1949, cũng như theo yêu cầu bổ sung lực lượng chi viện cho chiến trường miền Nam của Đảng bộ Thạch Thành, nhiều thanh niên xã Thạch Long hăng hái lên đường nhập ngũ.

Thực hiện yêu cầu của Đảng bộ huyện Thạch Thành về công tác phát triển đảng viên, Chi bộ Thạch Long đã kết nạp được một số đảng viên mới. Như các đồng chí Nguyễn Xuân Thông, Phạm Thanh Hà..., nhiều đồng chí được đề bạt các chức vụ như các đồng chí Trịnh Đình Minh giữ chức chi hội trưởng Thanh Niên cứu quốc xã, đồng chí Nguyễn Văn Phái giữ chức thường vụ Thanh niên xã Thạch Long.

Là huyện miền núi của vùng tự do Liên khu IV, nơi tiếp giáp các địa bàn chiến lược quan trọng nên ngay từ những ngày đầu kháng chiến, huyện Thạch Thành đã đón nhận hàng ngàn bà con tản cư từ các vùng địch tạm chiếm. Đến năm 1949, huyện Thạch Thành đón nhận hàng vạn người dân về tản cư. Trước tình hình đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thạch Thành, Chi bộ và nhân dân xã Thạch Long đã chủ động thành lập Ban tản cư từ xã xuống các làng. Chi bộ vận động toàn dân tích cực tham gia phong trào đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Nhiều gia đình trong xã đã tự nguyện giúp nơi ăn, chốn ở, đồ dùng gia đình, tiền gạo, thậm chí cả ruộng đất, tạo điều kiện cho đồng bào tản cư ổn định cuộc sống và tham gia sản xuất.

  Cũng trong năm 1949, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta bắt đầu chuyển từ phòng ngự, cầm cự sang phản công nhằm biểu dương lực lượng, sẵn sàng chiến đấu. Trong không khí đó, tháng 12 năm1949, huyện đội Thạch Thành đã tổ chức tuần lễ diễn tập tác chiến tổng hợp ở làng Án Đổ nhằm biểu dương lực lượng, kiểm tra khả năng chiến đấu của các đơn vị vũ trang trong huyện. Tham gia diễn tập có đại đội chủ lực huyện gồm 130 chiến sỹ và hơn 300 chiến sĩ được tuyển chọn từ các đơn vị dân quân, du kích các xã. Qua đợt diễn tập, khả năng chiến đấu và trình độ tác chiến của dân quân, du kích các xã. Trong diễn tập, hai đơn vị du kích khá nhất được tặng thưởng, đó là du kích xã Thạch Long và xã Ngọc Trạo(1).

Song song với công tác phát triển lực lượng dân quân, du kích, nhiệm vụ đẩy mạnh tăng gia, phát triển sản xuất được Chi bộ Đảng, chính quyền xã quan tâm. Thời kỳ này, Chi bộ đã chỉ đạo các tổ Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể vận động Nhân dân tiếp tục tham gia các tổ đổi công, củng cố và phát triển các tổ đổi công, vần công, đồng thời khắc phục khó khăn do lũ lụt vụ mùa năm 1949, đảm bảo cấy hết diện tích.

Từ những kết quả đã đạt được, phong trào cách mạng Thạch Long ngày càng mở rộng, công tác phát triển đảng viên được nâng lên rõ rệt. Trong xã, nhiều quần chúng tích cực đã được kết nạp vào Đảng, từ đó bổ sung lực lượng quan trọng cho cách mạng ở địa phương.

3. Tích cực xây dựng hậu phương, chi viện nhân lực vật lực, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn (1950 - 1954)

Đầu năm 1950, chính quyền xã Thạch Long đã huy động Nhân dân các thôn tham gia đắp đập để ngăn nước, đào hào làm mương máng tưới tiêu phục vụ sản xuất Nông nghiệp, bên cạnh đó các tổ đội cong của xã tiếp tục được phát triển. cùng lúc đó Đảng ta đưa ra chủ trương chuẩn bị chuyển từ đánh bị động sang phản công tiêu diệt sinh lực địch làm thay đổi thế trận cho ta. Thực hiện chủ trương trên, tháng 6 năm 1950, quân ta mở chiến dịch Biên giới theo hướng Cao - Bắc - Lạng nhằm tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông biên giới Việt - Trung mở đường liên lạc quốc tế của ta với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc. Trong không khí thắng lợi của chiến dịch Biên giới, cán bộ và Nhân dân xã Thạch Long đã đẩy mạnh thi đua kháng chiến, thực hiện sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 22/02/1950 về tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực cho cuộc kháng chiến của dân tộc.

Trước tình hình mới, tháng 6 năm 1950, Đảng bộ huyện Thạch Thành đã triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ IV tại làng Án Đổ (xã Thạch Bình). Đại hội đã đề ra nhiệm vụ là: “Tăng cường sức mạnh của chế độ dân chủ nhân dân, đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, thực hiện chính sách ruộng đất, bồi dưỡng sức dân. Xây dựng lực lượng quân sự vững mạnh, đề cao cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu đập tan các âm mưu đánh chiếm vùng tự do của địch, giữ vững hậu phương, đồng thời giúp đỡ và bảo vệ các cơ quan, đơn vị và Nhân dân sơ tán về địa bàn huyện. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, kiện toàn tổ chức, đẩy mạnh công tác tư tưởng”(1).

Thực hiện nhiệm vụ của Đảng bộ huyện Thạch Thành, công tác giáo dục chính trị được đẩy mạnh. Tất cả cán bộ chủ chốt trong xã đều tham gia học tập trong 7 ngày, quán triệt về các chủ trương lớn của Đảng. Tại các thôn, xóm, cán bộ đã tiến hành tuyên truyền cổ động, đưa ra các khẩu hiệu tuyên truyền chủ trương, đường lối rộng rãi trong nhân dân, từ đó đã tạo ra khí thế mới trong phong trào cách mạng tại địa phương.

Đầu năm 1950, xã Thạch Long đã huy động Nhân dân các thôn tham gia đắp đập để ngăn nước, đào hào, làm mương máng tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, các tổ đổi công của xã tiếp tục được phát triển.

Để chuẩn bị cho giai đoạn mới, tháng 7 năm 1950, hội nghị cán bộ của tỉnh đã xác định nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân Thanh Hóa là: Quyết chiến thắng để bảo vệ Thanh Hóa thành một hậu phương quan trọng của cả 3 chiến trường: Bắc Bộ - Lào - Bình Trị Thiên, dốc toàn bộ nhân tài, vật lực cho chiến trường Bắc Bộ và chiến trường Thượng Lào.

Là vùng tự do tiếp cận với chiến trường Nam, Bắc Bộ, Hòa Bình, Bình Trị Thiên và Lào, Thạch Thành trở thành điểm tập kết, nơi qua lại của các đoàn bộ đội và dân quân từ hậu phương ra tiền tuyến và từ chiến trường trở về. Ngoài ra, các cơ quan đơn vị, Trung ương, quân đội và các tỉnh sơ tán về Thạch Thành. Nhằm thuận tiện cho việc vận chuyển tài lực, các nhu yếu phẩm cần thiết phục vụ cho chiến trường, từ năm 1951 - 1952, các cơ quan quân nhu của quân đội đã về đóng quân và làm việc tại làng Duyên Linh. Lúc đó các gia đình có cơ quan Nhà nước đóng đã nhường nhà cho cơ quan làm việc và đặt máy móc.

Cũng trong thời gian này, do nhu cầu học tập của Nhân dân trong huyện, Thạch Thành đã thành lập các trường học để bồi dưỡng kiến thức cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Trước tình hình đó, từ năm 1951 - 1952, xã Thạch Long cho xây dựng cấp I và 2 lớp cấp II (lớp 5 và lớp 6) đặt tại Cổ Tế để con em trong xã theo học. Tháng 7 năm 1951, Cổ Tế bị máy bay đánh phá, 2 lớp cấp II tự giải tán, cấp I được sơ tán lên thôn Đồng Trạch.

Để đóng góp nhân lực, vật lực cho cuộc kháng chiến của dân tộc, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính đã phát động toàn dân tham gia phong trào mua công phiếu kháng chiến, công trái quốc gia, ủng hộ lúa khao quân, hũ gạo kháng chiến... Thực hiện phong trào của huyện, Nhân dân Thạch Long đã mua công phiếu kháng chiến, công trái quốc gia, ủng hộ lúa khao quân, hũ gạo kháng chiến... Mặc dù đời sống của Nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng với tinh thần cách mạng “Tất cả để chiến thắng”, Nhân dân các làng Thạch Long đã hết sức đóng góp của cải, vật chất phục vụ cho kháng chiến. Trong đó, làng Đồng Trạch có các ông Phạm Viết Trác, Nguyễn Xuân Bồng, Nguyễn Xuân Còn, Phạm Văn Tụng… , làng Cự Môn có các ông Bùi Văn Kiến, Bùi Văn Cao, Ông Chánh Phùng… ; làng Dương Giao có các ông: Bùi Huy Thú đóng góp 1.600kg lúa, Bùi Văn Vượng đóng góp 1.200kg lúa, Bùi Văn Mầm đóng góp 900kg lúa, Bùi Văn Thảo đóng góp 700kg lúa…. Với sự đóng góp của Nhân dân địa phương, Thạch Long trở thành một trong 6 xã dẫn đầu toàn huyện trong phong trào ủng hộ kháng chiến.

Cuối năm 1950 đầu năm 1951, thực hiện nhiệm vụ mà huyện Thạch Thành đề ra về chuẩn bị chiến dịch Hà - Nam - Ninh, các thôn trong xã Thạch Long đã huy động hàng chục đội dân công ngắn ngày và dài ngày phục vụ trên địa bàn huyện, liên huyện, tỉnh với số lượng hàng trăm lượt người tham gia.

Từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương khai mạc tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội quyết định đưa Đảng Cộng sản Đông Dương từ hoạt động bí mật dưới cái tên gọi “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương” ra hoạt động công khai trở lại dưới cái tên mới là Đảng Lao động Việt Nam (tách Đảng Khơ Me và Lào về thành lập Đảng trong nước mình hoạt động công khai). Đây là một sự kiện vô cùng quan trọng đối với đời sống chính trị của Nhân dân ta, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng như thắng lợi của quân ta trên chiến trường.

Trước tình hình đó, tháng 4 năm 1951, Đảng bộ huyện Thạch Thành đã đề ra chương trình công tác mới là củng cố tổ chức Đảng từ huyện xuống cơ sở để đưa ra hoạt động công khai, tăng cường lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu, động viên sức người, sức của cao nhất cho tiền tuyến; đẩy mạnh sản xuất, tiếp tục thực hiện giảm tô, chuẩn bị tốt công tác thu thuế nhà nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm động viên quần chúng thi đua ái quốc.

Thực hiện chương trình của Đảng bộ huyện Thạch Thành, Chi bộ Sắt đã tập trung chỉ đạo Mặt trận và các đoàn thể từ xã đến thôn xóm tuyên truyền rộng rãi chiến thắng của quân dân ta trên khắp các chiến trường và phát động toàn dân thực hiện tuần lễ thi đua sản xuất, chào mừng thắng lợi của Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt động công khai, thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước theo tinh thần “Tất cả chiến thắng”, đáp ứng yêu cầu cao nhất về sức người, sức của cho thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Thực hiện mệnh lệnh động viên, các làng thuộc xã Thạch Long đã tiễn nhiều thanh niên lên đường ra mặt trận, một số người đã hy sinh anh dũng trên chiến trường, trong đó có đồng chí Phạm Văn Trác sinh năm 1920 (thôn 1) hy sinh năm 1950, là liệt sỹ đầu tiên của xã trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Để tăng cường tiềm lực cho kháng chiến kiến quốc, ngày 11 tháng 5 năm 1951, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 31/SL về thuế nông nghiệp thu bằng thóc, nhằm mục đích huy động công bằng, hợp lý hơn đối với nông dân lao động, đánh nặng vào giai cấp địa chủ, phú nông, khuyến khích sản xuất phát triển. Thực hiện sắc lệnh về cải cách chế độ thuế khóa, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã tập trung xây dựng lực lượng bàn kế hoạch triển khai. Dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của công tác thuế nông nghiệp, Huyện ủy Thạch Thành đã quyết định thành lập Ban thuế nông nghiệp từ Huyện xuống cơ sở.

Đến đầu năm 1952, Tỉnh ủy huy động hơn 300 cán bộ cấp Tỉnh và Huyện cho công tác thuế nông nghiệp ở Thạch Thành. Dưới sự hỗ trợ của cán bộ cấp Tỉnh và Huyện, công tác thuế nông nghiệp đã được triển khai về hầu hết các xã, trong đó có Thạch Long. Huyện chỉ đạo Ban thuế xã tổ chức kiểm kê ruộng đất, phân mảnh định hạng đất gồm 5 hạng; tính sản lượng, tính địa tô chênh lệch theo cấp lũy tiến và lập bảng thuế cho từng thôn, hộ gia đình. Ruộng đất của các thôn theo chỉ đạo của Chi ủy và Ủy ban kháng chiến chia làm 5 hạng để tính thuế. Đây là lần đầu tiên Thạch Long cùng với các xã trong Huyện thực hiện chính sách thuế nông nghiệp, một công việc hết sức phức tạp nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thạch Long đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Với kết quả thực hiện, từ năm 1951 - 1954, toàn huyện Thạch Thành thu được 10.907,474 tấn thóc đóng góp cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong đó, Thạch Long đã thu được 730,3 tấn thóc, trở thành 1 trong 4 xã dẫn đầu có mức thuế cao nhất trong huyện (4 xã gồm Thạch Bình 855,233 tấn, Thạch Cẩm 771,938 tấn, Thạch Long 730,3 tấn, Thành An 703,6 tấn). Như vậy, đến năm 1953, chính sách giảm tô ở Thạch Long và các xã trong huyện đã giải quyết cơ bản về việc chia ruộng đất, trâu, bò, công cụ cho dân cày, xóa bỏ cơ bản hình thức bóc lột phong kiến. Từ đây, người nông dân đã làm chủ ruộng đất, chính sách giảm tô giúp người dân có ruộng làm.

Cũng trong năm 1951, thực dân Pháp tăng cường đánh chiếm các vùng hậu phương của ta. Tại Thạch Thành, thực dân Pháp đã tung nhiều biệt kích, do thám và dùng máy bay ném bom bắn phá làng, bản, công trình thủy lợi, kho tàng, trường học… nhằm uy hiếp tinh thần kháng chiến, phá hoại sản xuất, phá hoại các đường tiếp tế cho chiến trường và các cơ quan sơ tán về địa phương. Tại Thạch Long, ngày 18 tháng 8 năm 1951 (là ngày 13 tháng 7 Âm lịch), máy bay Pháp ném bom vào làng Cổ Tế và một số làng khác làm 22 người chết và bị thương, trên 10 ngôi nhà dân bị cháy và giết hại nhiều trâu, bò…. Trước tình hình đó, quân và dân Thạch Long đã quyết tâm đồng lòng nhất trí giúp đỡ nhau cùng vượt qua khó khăn, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, đóng góp sức người, sức của cho chiến trường.

Giữa không khí ác liệt của chiến tranh, phong trào thi đua sản xuất của Thạch Long vẫn được phát động mạnh mẽ trong nhân dân. Thực dân Pháp bắn phá ban ngày, cán bộ xã lãnh đạo người dân làm đêm, chúng thả pháo sáng ban đêm, nhân dân lại tập trung sản xuất lúc rạng sáng. Ở một số làng như Cổ Tế có nhà cửa bị bắn cháy, các cán bộ, đảng viên vận động quần chúng lánh nạn ngoài đồng để sinh sống và sản xuất. Với quyết tâm đó, nhân dân trong xã đã khắc phục chiến tranh, vươn lên sản xuất.

Trong thời gian từ  tháng 6 năm 1949 đến tháng 6 năm 1954, chi bộ mỗi năm tổ chức 1 lần tổng kết, có tính chất như Đại hội, tương ứng với các khóa IV, V, VI, VII, VIII. Đồng chí  Vũ Văn Bọc Bí thư Chi bộ liên tục trong thời gian này. Đồng chí Phạm Văn Đua Làm chủ Tịch UBHC từ năm 1953.

Sang năm 1953 - 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ nhằm đánh đòn quyết định để kết thúc cuộc chiến tranh, giành thắng lợi cuối cùng trên mặt trận quân sự. Cùng với cả nước, quân và dân Thạch Thành dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Thanh Hóa đã phát động phong trào thi đua tham gia dân công phục vụ chiến dịch.

Dưới sự điều động của Huyện ủy Thạch Thành, Thạch Long đã thành lập đơn vị dân công lên đường phục vụ chiến dịch, hàng trăm người tham gia các đợt vận chuyển cho chiến dịch, nhiều xe đạp thồ, thuyền nan, lương thực thực phẩm đóng góp cho thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ.

  Ở hậu phương, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, xã Thạch Long tiến hành phát động quần chúng đấu tranh triệt để giảm tô. Trước khi đội giảm tô về xã Thạch Long, Huyện ủy điều đồng các đồng chí sau đây lên huyện công tác nhận nhiệm vụ mới: đồng chí Lưu Trọng Lợi đi giảm tô; đồng chí Vũ Văn Bọc làm Chính trị viên Huyện đội; đồng chí Phạm Văn Đua nhận công tác tại Ban tổ chức huyện; đồng chí Trần Thanh Vân (làng Xuân Áng) lên Ban Tuyên huấn huyện; đồng chí Tạ Văn Kiện làm cán bộ tư pháp của huyện.

 Cuộc giảm tô ở Thạch Long tiến hành từ tháng 7 năm 1953 và kết thúc tháng 11 năm 1953. Sau khi hoàn thành giảm tô triệt để, 2 làng Xuân Áng và Cẩm Bào sáp nhập vào xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, còn xã Thạch Long được chia thành 2 xã Thạch Long và Thạch Đồng. Lúc bấy giờ, đồng chí Vũ Văn Bọc làm Bí thư chi bộ, đồng chí Lưu Trọng Lợi (làng Phú Ổ) làm chi ủy viên kiêm Xã đội trưởng.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trải qua 9 năm kháng chiến đầy hy sinh gian khổ, Nhân dân Thạch Long đã vượt qua khó khăn gian khổ, chiến đấu anh dũng và giành chiến thắng vẻ vang. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Sắt, phong trào cách mạng Thạch Long đã lan rộng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể ngày càng vững mạnh, các chủ trương, đường lối đã đến với người dân, nâng cao tư tưởng cách mạng. Cũng từ trong kháng chiến, xã Thạch Long đã trưởng thành trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, xây dựng lực lượng chiến tranh du kích, khẳng định sức mạnh của quần chúng nhân dân.

    Trong 9 năm kháng chiến, xã Thạch Long có hàng trăm thanh niên tham gia bộ đội chủ lực, thanh niên xung phong, hơn 1.000 lượt dân công phục vụ các chiến dịch, vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí ra mặt trận. Nhiều chiến sỹ dân công lên đường phục vụ chiến dịch liên tiếp 2 - 3 đợt, có đợt kéo dài nhiều tháng liền... Trong số đó có 14 người con ưu tú của quê hương đã hy sinh anh dũng được Tổ quốc ghi công; hàng chục người là thương binh, bệnh binh.

   Ở hậu phương, các tầng lớp Nhân dân đoàn kết một lòng, vừa ra sức chiến đấu, xây dựng và bảo vệ hậu phương; vừa nỗ lực sản xuất, chi viện hàng chục tấn lương thực, thực phẩm phục vụ kháng chiến. Đồng thời tích cực quyên góp ủng hộ kháng chiến, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ thuế nông nghiệp.

   Với những đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, cán bộ, đảng viên và Nhân dân Thạch Long đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương kháng chiến, Huân chương chiến công các hạng và nhiều bằng khen, giấy khen. Cán bộ, đảng viên và Nhân dân Thạch Long có quyền tự hào về những đóng góp vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc và rất xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dịp về thăm tỉnh Thanh Hóa lần thứ hai vào ngày 13/6/1957: “…Trong kháng chiến đồng bào tỉnh ta, các tầng lớp nhân dân đều tỏ ra đoàn kết tham gia kháng chiến. Tôi chỉ nói vài điểm, ví dụ: dân công đã ra sức rất nhiều, trong một chiến dịch Điện Biên Phủ, Thanh Hóa góp 12 vạn dân công vận tải lương thực cho bộ đội. Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó(1).


 

 

Chương III

CHI BỘ - ĐẢNG BỘ XÃ THẠCH LONG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THAM GIA KHÁNG CHIẾN

 CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 - 1975)

 

     I.CHI BỘ THẠCH LONG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, KHÔI PHỤC SẢN XUẤT VÀ TIẾN HÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (1954 - 1957)

  Sau thất bại tại chiến trường Điện Biên Phủ (ngày 07/5/1954), thực dân Pháp buộc phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, trong đó Pháp buộc phải cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Cũng từ đây, đất nước ta tạm thời chia cắt làm hai miền, vĩ tuyến 17 là ranh giới quân sự tạm thời phân chia hai miền Nam - Bắc. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở miền Nam, đế quốc Mỹ đang tìm mọi thủ đoạn để thay chân Pháp. Chúng dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự, là tiền đồn chống lại chủ nghĩa cộng sản ở châu Á.

Hòa chung trong không khí tưng bừng phấn khởi ngay sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, trên các trục đường làng, ngõ xóm ở Thạch Long đều treo cờ Tổ quốc; hàng loạt cuộc mít tinh, hội họp, biểu diễn văn nghệ của các tổ chức đoàn thể quần chúng…đã đem lại cho làng quê Thạch Long một sức sống mới.

Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Thanh Hóa về sắp xếp lại địa giới hành chính các xã trong tỉnh, xã Thạch Long được chia tách thành 2 xã: Thạch Long, Thạch Đồng. Còn 2 làng Cẩm Bào và Xuân Áng cắt về xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc.

Trong thời gian từ tháng 7/1954 đến đầu năm 3/1956, Chi bộ xã Thạch Long tiến hành 2 lần Đại hội: khóa IX, X. Đại hội bầu đồng chí Nguyễn chí Tụ giữ chức Bí thư Chi bộ; Đồng chí Phạm Văn Thạo là Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.

. Nhiệm vụ chủ yếu của Chi bộ Đảng trong thời gian này là lãnh đạo nhân dân khẩn trương hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, ổn định đời sống của Nhân dân, củng cố chính quyền, Mặt trận Liên Việt, các đoàn thể, các tổ đổi công. Tổ chức quần chúng đấu tranh chống bọn phản động xuyên tác chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, hòng cưỡng ép đồng bào công giáo di cư vào Nam; đồng thời tổ chức đón tiếp bộ đội, đồng bào, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ đã ký kết.

Bước vào giai đoạn cách mạng mới, xã Thạch Long có nhiều thuận lợi căn bản. Chi bộ Đảng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu trong quá trình lãnh đạo Nhân dân chiến đấu và lao động sản xuất. Đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ vững phẩm chất của người chiến sỹ cộng sản, trình độ được nâng cao, trở thành tấm gương sáng để quần chúng noi theo. Nhân dân luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm xây dựng quê hương dần thoát khỏi nghèo đói, lạc hậu. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Thạch Long nằm trong vùng tự do nên ít chịu thiệt hại về người và của; có điều kiện để củng cố, phát triển về mọi mặt. Mặc dù vậy, cán bộ, đảng viên và Nhân dân cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Xã Thạch Long có địa hình chủ yếu dạng “lòng chảo”, có sông Bưởi chạy qua nên các cánh đồng dễ bị ngập úng khi mưa lớn. Kỹ thuật canh tác lạc hậu, sản xuất nông nghiệp hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết. Nhìn chung, trình độ đội ngũ cán bộ, đảng viên thấp; tỷ lệ dân số mù chữ hoặc tái mù còn lớn. Mê tín dị đoan, hủ tục còn phổ biến, in sâu vào đời sống của Nhân dân.

Sau năm 1954, tại xã Thạch Long, tình hình thiếu đói diễn ra nghiêm trọng, nhất là vào thời kỳ giáp hạt. Chi bộ và chính quyền xã vận động nhân dân nêu cao truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách. Dù cuộc sống khó khăn, song đồng bào dân tộc Mường sẵn sàng san sẻ với nhau củ khoai, củ sắn, giúp nhau trong mọi công việc. Thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân xã Thạch Long trồng rau ngắn ngày; chủ động vào rừng hái rau dại, săn bắn thú, bắt cá dưới sông, suối. Kết quả, cả xã không có người chết đói, tình hình thiếu đói bớt gay gắt, Nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong những năm đầu miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, Nhân dân xã Thạch Long canh tác các giống lúa chớp, lốc, nếp đồ nam, lúa ngạnh… Do kỹ thuật canh tác lạc hậu nên năng suất lúa chỉ đạt bình quân từ 50 - 60 kg/sào.

Trên địa bàn xã Thạch Long có một thôn nhân dân theo đạo Thiên chúa, trong đó tập trung chủ yếu ở Cự Lý. Sau năm 1954, tình hình tôn giáo, nhất là liên quan đến Công giáo ở miền Bắc rất phức tạp do sự chống phá của kẻ thù. Lúc này bọn phản động đội lốt tôn giáo hoạt động tuyên truyền, dụ dỗ, cưỡng bức đồng bào Công giáo di cư vào Nam. Lợi dụng lòng “ngoan đạo” của giáo dân, chúng loan tin “Chúa đã vào Nam, con chiên phải theo Chúa, nếu ở lại khi chết sẽ không được cứu rỗi linh hồn”, “Vào Nam mỗi gia đình được cấp 5 mẫu ruộng, 1 con trâu”. Chúng còn đe dọa “Sau khi hết thời hạn di cư, Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử ném xuống miền Bắc”,vv…

Trước tình hình đó, Huyện ủy Thạch Thành lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ đề ra biện pháp để làm thất bại mưu đồ của địch. Chi bộ tổ chức phổ biến chính sách tự do tôn giáo của Đảng và Chính phủ, tuyên truyền đồng bào giáo dân biết rõ mưu đồ của địch, vạch trần luận điệu vu cáo của kẻ địch về tin đồn “cộng sản cấm đạo”. Bên cạnh đó, những kẻ tung tin đồn nhảm, xuyên tạc đường lối của Đảng bị xử lý nghiêm khắc. Những biện pháp trên giúp Nhân dân nói chung, giáo dân nói riêng yên tâm sản xuất, gắn bó với quê hương.

Về thực hiện cuộc cải cách ruộng đất

Giải quyết nhiệm vụ dân chủ, cốt lõi là mang lại ruộng đất cho người nông dân là chủ trương mang tính chiến lược của Đảng Lao động Việt Nam. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, ở xã Thạch Long đã lấy đất của địa chủ, phú nông chia cho nông dân không có đất hoặc ít ruộng đất; buộc địa chủ phải giảm tô, thoái tô triệt để 25% cho người nông dân.

Bước vào cải cách ruộng đất từ tháng 6/1955, xã Thạch Long thuộc đợt thứ 4 của tỉnh Thanh Hóa. Với phương châm: Dựa vào bần, cố nông, Đội cải cách thực hiện phương châm “Ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm), tiến hành “bắt rễ, xâu chuỗi” ở cơ sở, phát động nhân dân “người nghèo đấu tranh với địa chủ cường hào”, đứng lên đánh đổ hoàn toàn giai cấp bóc lột, giành lại ruộng đất, trâu, bò và những tư liệu sản xuất khác. Cải cách ruộng đất ở xã Thạch Long diễn ra gồm 4 bước:

- Bước 1, tổ chức cho nhân dân học tập chính sách của Đảng, ôn nghèo kể khổ, vạch trần tội ác của địa chủ, cường hào gian ác);

- Bước 2, dựa trên tiêu chí cụ thể phân loại các hộ trong xã về thành phần giai cấp gồm 4 loại: bần - cố nông, trung nông, phú nông và địa chủ;

- Bước 3, tiến hành đấu tố, tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất, tài sản của địa chủ, phú nông chia cho dân nghèo.

- Bước 4, tổng kết thắng lợi, chính đốn tổ chức theo hướng dẫn.

Trong thời gian diễn ra cải cách ruộng đất, tất cả các bước đều do Đội cải cách ruộng đất trực tiếp chỉ đạo, Chi ủy và chính quyền xã chỉ còn là một bộ phận thường trực giải quyết những công việc sự vụ.

Cuối năm 1955, cải cách ruộng đất ở xã Thạch Long cơ bản hoàn thành và thu được những kết quả rất to lớn. Đội cải cách ruộng đất đã quy 7 địa chủ; tiến hành tịch thu, trưng thu, trưng mua hàng chục mẫu ruộng và nhiều tài sản khác của các gia đình thuộc giai tầng bóc lột đem chia cho nông dân nghèo.

Thắng lợi của cuộc cải cách ruộng đất mang lại ý nghĩa to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội. Từ đây, chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến bị xóa bỏ hoàn toàn; người nông dân Thạch Long thực hiện được ước mơ ngàn đời “Người cày có ruộng”; đồng thời xây dựng được uy thế chính trị làm cho người nông dân thực sự làm chủ nông thôn, từ đó phấn khởi, hăng hái tham gia sản xuất, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Song, cũng như các địa phương trên miền Bắc, quá trình tiến hành cải cách ruộng đất ở xã Thạch Long cũng mắc phải một số sai lầm, có mặt trầm trọng. Đó là, thực tế, mức độ tập trung ruộng đất của các gia đình bị quy là địa chủ không quá lớn. Do tả khuynh dẫn đến đấu tố tràn lan, thô bạo, đấu tố cả địa chủ kháng chiến. Cùng với đó, Đội cải cách còn cách chức, khai trừ một số cán bộ, đảng viên, kết nạp không qua thử thách đối với một số cốt cán hoặc cá nhân hăng hái trong đấu tố là bần, cố nông trình độ hiểu biết thấp. Chi bộ và chính quyền giao lại cho đội cải cách nắm quyền điều hành, không khí căng thẳng bao trùm khắp các làng.

Tháng 4 năm 1956, Trung ương Đảng đã phát hiện ra sai lầm trong cải cách ruộng đất và có chỉ thị sửa chữa những sai lầm ấy. Từ ngày 25/8 đến ngày 05/10/1956, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (khóa II) mở rộng. Tại hội nghị, Đảng đã nghiêm khắc nhìn nhận những khuyết điểm trong cải cách ruộng đất và kiên quyết sửa sai. Đồng thời, Đảng quyết định chấn chỉnh lại tổ chức, củng cố nội bộ Đảng, ổn định tâm lý nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết.

Tháng 12 năm 1956, Ủy ban hành chính tỉnh Thanh Hóa đề ra kế hoạch sửa sai. Tỉnh ủy Thanh Hóa chỉ định đồng chí Nguyễn Đình Bàng giữ chức Bí thư Huyện ủy Thạch Thành, đồng thời là người phụ trách lãnh đạo công tác sửa sai trên địa bàn huyện.

Từ tháng 5 năm (1956 – đến tháng 12 năm 1957), Chi bộ tổ chức 2 lần Đại hội khóa XI, XII. Đồng chí Nguyễn Chí Tụ được bầu là Bí thư chi bộ; Đồng chí Phạm Văn Thạo là Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.

Thực hiện kế hoạch sửa sai của huyện, xã Thạch Long bước vào công tác sửa sai từ đầu năm 1957. Chi bộ và chính quyền đã cử các đồng chí Nguyễn Chí Tụ phối hợp với Đội sửa sai; đồng thời Chi bộ Đảng tổ chức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân học tập chính sách của Đảng. Trên cơ sở nghiên cứu, xem xét từng đối tượng bị quy thành phần bóc lột, bị cách chức, khai trừ, Đội sửa sai đã đề nghị tỉnh hạ thành phần đối với các đối tượng oan, sai. Chi bộ Đảng vận động các đồng chí được khôi phục danh dự, Đảng tịch tiếp tục công tác; đồng thời thuyết phục một số đồng chí được kết nạp trong cải cách ruộng đất nhưng thiếu tiêu chuẩn tự nguyện xin ra khỏi Đảng. Cán bộ Đội sửa sai và cán bộ xã đến từng làng động viên các gia đình bị quy oan, sai “gác lại quá khứ”, an tâm lao động sản xuất, ổn định cuộc sống. Các tổ chức Đảng, chính quyền, công an, Xã đội, đoàn thể được kiện toàn, củng cố và đi vào hoạt động nền nếp. Cuối tháng 8/1957, công tác sửa sai ở Thạch Long cơ bản hoàn thành.

Ngay sau khi hoàn thành sửa sai trong cải cách ruộng đất, Chi bộ xã Thạch Long tiến hành cuối tháng 8 năm Đại hội lần thứ XIII, nhiệm kỳ 1957-1958; đại hội bầu Ban Chi ủy gồm 7 đồng chí; đồng chí Đào Bá Tuynh làm bí thư chi bộ. đồng chí Phạm Văn Thạo - Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC xã.

Năm 1957, thời tiết diễn biến phức tạp, xã hứng chịu cơn hạn hán kéo dài khiến năng suất, sản lượng lương thực sụt giảm so với những năm trước đó. Nhiều gia đình đứng trước nguy cơ thiếu đói nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Chi bộ và chính quyền xã phát động phong trào “Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”, vận động nhân dân tích cực khơi thông mương máng, đào ao, đắp bờ giữ nước, đảm bảo có đủ nước sản xuất; chủ động gieo thêm mạ để cấy đủ diện tích. Đồng thời, nhân dân tích cực đưa các cây ràu màu ngắn ngày vào canh tác. Nhờ vậy, năm 1957, xã không xảy ra nạn đói, các hộ an tâm lao động sản xuất xây dựng quê hương.

Ngày 21/10/1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 57-CT/TW “Về việc ra sức củng cố, khôi phục và phát triển tổ đổi công”, Chi bộ cử một số cán bộ chủ chốt đi học tập chính sách xây dựng tổ đổi công do Huyện ủy tổ chức. Trên cơ sở đó, Chi ủy xã Thạch Long tuyên truyền, vận động nhân dân ở các làng xây dựng tổ đổi công theo chủ trương của Đảng. Trung bình mỗi tổ đổi công có từ 8 - 10 hộ, trong đó đa số các tổ đổi công theo việc, theo vụ. Sự ra đời của tổ đổi công đã giúp người nông dân giải quyết những khó khăn về lao động, sức kéo, nông cụ, đồng thời dần tạo nên ý thức và kinh nghiệm sản xuất tập thể. Bên cạnh đó, tổ đổi công củng cố mối quan hệ tốt đẹp giữa các gia đình, phù hợp với truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam. Tổ đổi công là hình thức lao động tập thể, là tiền đề xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp ở Thạch Long trong những năm tiếp theo.

Về công tác giáo dục: Năm 1957, xã Thạch Long đã tổ chức lớp học trình độ cấp 1 cho lớp ghép nhiều lứa tuổi, nhưng chưa được Nhà nước công nhận thành lập trường mà chỉ tổ chức dạy học với hình thức dân lập. Giáo viên là những người trong làng: Thầy Phong, thầy Khang, thầy Hoàn, thầy Quýnh, thầy Sơn là những người có trình độ học vấn tự nguyện tham gia dạy học.

Lớp học có đình làng rộng mát, nhưng những ngày giặc Pháp bắn phá, bàn ghế đã đưa đi sơ tán, chưa mang về. Giáo viên, học sinh và nhân dân Thạch Long lại đi khênh bàn ghế gỗ lim từ đình làng Đồng Trạch về đình làng Thạch Long để tổ chức học tập. Lớp học sinh này gồm nhiều lứa tuổi khác nhau. Nhóm nhỏ như Hoành, Hanh, Tinh, Giáp... nhóm lớn như Đạo, Tính, Toán... chênh nhau đến 6, 7 tuổi đều cùng học chung lớp. Thầy giáo Phạm Văn Phong là người uốn nắn từng nét chữ, phép tính đầu tiên cho lớp học sinh đầu tiên của xã Thạch Long theo chủ trương giáo dục của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lớp này năm sau chuyển thành các lớp 2, 3 của trương cấp I. Học sinh vào các lớp sau này ngày càng có lứa tuổi đồng đều hơn. Thời gian này, thầy giáo Lê Quyền (Thạch Long) được Ty Giáo dục Thanh Hóa bổ dụng làm Hiệu trưởng trường cấp I Thành Kim(1).

II. CHI BỘ XÃ THẠCH LONG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TIẾN HÀNH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BƯỚC ĐẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HÓA (1958 - 1960)

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, tháng 12 năm 1958, Đại hội chi bộ xã Thạch Long lần thứ XIV, nhiệm kỳ 1958 - 1959. Đại hội bầu Chi ủy gồm 7 đồng chí. Đồng chí Đào Bá Tuynh tiếp tục được bầu giữ chức Bí thư chi bộ; đồng chí Phạm Văn Thạo - Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC xã. Từ tháng 4/1959, đồng chí Phạm Văn Nhượng giữ chức vụ Chủ tịch UBHC xã.

Tháng 11 năm 1958, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 đã đề ra nhiệm vụ chính là: Đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa mà khâu chính là cải tạo quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, biện pháp cải tạo là xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp và thông qua kế hoạch Nhà nước 3 năm (1958 - 1960) phát triển kinh tế, văn hóa.

Cuối năm 1958, Đại hội Đảng bộ huyện Thạch Thành lần thứ VI đề ra phương hướng quyết tâm thực hiện tốt việc cải tạo thành phần kinh tế cá thể, đưa nông dân vào hợp tác xã bậc thấp. Sau Đại hội, Huyện ủy quyết định chọn xã Thành Hưng và xã Thành Vân là nơi thí điểm xây dựng hợp tác xã. Cụ thể, xã Thành Hưng lập được hợp tác xã Trường Thành và xã Thành Vân lập được hợp tác xã xóm Yên.

Đầu năm 1959, Huyện ủy Thạch Thành triệu tập hội nghị cán bộ mở rộng tổng kết công tác xây dựng 2 hợp tác xã thí điểm và mở rộng đến các xã còn lại, mỗi xã sẽ xây dựng 1 hợp tác xã điển hình. Cán bộ xã Thạch Long tham dự đầy đủ hội nghị trên. Từ đây, trên địa bàn huyện Thạch Thành nói chung và Thạch Long nói riêng, phong trào xây dựng hợp tác xã diễn ra sôi nổi. Tuy nhiên, quá trình xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Thạch Long cũng gặp nhiều khó khăn. Tập quán sản xuất nhỏ lẻ, cá thể tồn tại lâu đời, ăn sâu vào nếp nghĩ của người nông dân. Nhiều người băn khoăn, lo lắng có thể bị mất ruộng đất khi vào làm ăn tập thể. Cán bộ, đảng viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý, điều hành, nhất là điều hành hợp tác xã nông nghiệp.

Nhằm phát huy cao nhất vai trò điều hành công việc ở địa phương, cấp ủy đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng, củng cố chính quyền. Tháng 4 năm 1959, Chi bộ xã Thạch Long lãnh đạo tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Trong kỳ họp đầu tiên, Hội đồng nhân dân bầu Ủy ban hành chính xã, trong đó đồng chí Phạm Văn Nhượng được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã Thạch Long, Mặt trận Tổ quốc phát huy vai trò đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đặc biệt giữa đồng bào “lương - giáo”. Đoàn Thanh niên đi đầu trong đăng ký nghĩa vụ quân sự, làm thủy lợi, trồng cây, làm phân bón ruộng, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Hội Phụ nữ hoạt động ngày càng hiệu quả, chị em thi đua, giúp đỡ nhau, tạo tính đoàn kết trong làng, xóm.

Về giáo dục: Năm học 1958-1959, xã Thạch Long chính thức được thành lập Trường phổ thông cấp I (TPTCI). Ty Giáo dục Thanh Hóa cử thầy Hồ (quê huyện Quảng Xương) làm Hiệu trưởng. Trường có 3 lớp: 1,2,3, có 64 học sinh. Trường, lớp làm bằng tranh, tre ở cạnh khu sân, kho HTX xóm Cổ Tiến. Giáo viên có: Thầy Thiều Quang Khang, thầy Lê Hoàn. Học sinh lớp 1 có: Khuê, Bảo, Lập, lâm, Huy, Tiến, Nhung, Thủy...

 Năm 1959, theo Điều lệ Đảng, nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn mới, Huyện ủy Thạch Thành đã ra quyết định chuyển Chi bộ Đảng xã Thạch Long thành Đảng bộ xã Thạch Long và chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời gồm 5 đồng chí, trong đó đồng chí Đào Bá Tuynh giữ chức Bí thư Đảng ủy. Tại thời điểm được thành lập, Đảng bộ xã Thạch Long gồm 5 chi bộ: Cổ Tiến, Cổ Tân, Cổ Long, Cổ Độ, Cổ Lăng.

Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ nhanh chóng kiện toàn nhân sự ổn định tổ chức Đảng, xây dựng các tổ chức kinh tế tập thể, Đảng bộ rất chú trọng xây dựng các tổ chức quần chúng: Mặt trận, thanh niên, phụ nữ... Về các mặt: Bồi dưỡng cán bộ, kinh phí hoạt động, kế hoạch công tác... nhờ vậy mà các tổ chức hoạt động có chất lượng hơn. Đảng bộ Thạch Long đã phát huy ngày càng mạnh mẽ vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên và năng lực lãnh đạo của chi bộ cơ sở. Chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức quần chúng Thạch Long đều đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, văn hoá xã hội.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thạch Long, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Thạch Long đã nỗ lực phấn đấu, đạt được kết quả tương đối toàn diện trong phong trào “Ba ngọn cờ hồng”, sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất, phát triển văn hóa - xã hội, cũng như trong công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể quần chúng.

  Được sự nhất trí của Huyện ủy Thạch Thành, tháng 4 năm 1959, Đại hội Đảng bộ xã Thạch Long lần thứ nhất, nhiệm kỳ 1959 - 1960, được tổ chức trọng thể. Đại hội đánh giá những kết quả đạt được của Chi bộ xã Thạch Long trên các lĩnh vực hoạt động trong thời gian qua. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong những năm tiếp theo, trọng tâm là hoàn thành phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa I gồm 5 đồng chí, đồng chí Đào Bá Tuynh được bầu giữ chức Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Phạm văn Nhượng chủ tịch UBHC.

 Để thực hiện tốt đường lối hợp tác hóa của Đảng, Đảng bộ và chính quyền xã Thạch Long đã chỉ đạo mỗi xóm xây dựng một Hợp tác xã. Ban đầu, ở các thôn chỉ có một số hộ làm đơn xin vào hợp tác xã theo nguyên tắc “tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ”, đó là các gia đình cán bộ, đảng viên và đoàn viên thanh niên, các gia đình có cán bộ cốt cán của các đoàn thể. Chi uỷ đã chọn, phân công những đảng viên, được quần chúng tín nhiệm và có năng lực để giao nhiệm vụ xung phong ứng cử làm Chủ nhiệm hợp tác xã. Ủy ban nhân dân xã chọn xóm Cổ Tiến làm điểm chỉ đạo thành lập hợp tác xã nông nghiệp lấy tên là Hợp tác xã Cổ Tiến. Hợp tác xã tiến hành đại hội, bầu Ban quản trị gồm 4 người. Ông Vũ Văn Xoan được bầu làm Chủ nhiệm.

Sau một năm lao động sản xuất theo kiểu tập thể, mô hình của Hợp tác xã từng bước đã hình thành: lịch giải phóng đất, gieo cấy, chăm bón, thu hoạch, hoạch toán, ăn chia… được xã viên hợp tác xã quan tâm, thấy rõ vào làm ăn HTX có sức mạnh chung hơn hẳn tổ đổi công. Bà con ở các xóm khác cũng cùng nhau bàn tán, thăm hỏi. Tình hình đã chuyển biến theo chiều hướng mới: Lãnh đạo muốn tổ chức làm ăn hợp tác, đa số nông dân đã có nhu cầu vào làm ăn tập thể. Chi bộ và Ủy ban hành chính xã tổ chức phổ biến kinh nghiệm ở 2 hợp tác thí điểm của huyện. Năm 1959, chi bộ ra Nghị quyết lãnh đạo tất cả các xóm còn lại đều tổ chức hợp tác xã nông nghiệp theo quy mô xóm. Chi ủy giao cho Hội nông dân là tổ chức quần chúng của nông dân làm nòng cốt, chủ công vận động nông dân đi theo con đường làm ăn hợp tác. Thực hiện chủ trương của chi bộ, chính quyền đoàn thể có kế hoạch triển khai và tích cực tuyên truyền, vận đông.

Từ ngày khởi động tuyên truyền xây dựng hợp tác xã (tháng 11/1958) xã Thạch Long đã xây dựng được 5 Hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp ở cả 5 xóm. Nhưng ở các xóm vẫn còn nhiều hộ chưa vào hợp tác xã. Trong hợp tác xã bậc thấp tất cả tư liệu sản xuất; ruộng đất, trâu bò, nông cụ của xã viên được đưa vàohợp tác xã, nhưng vẫn là quyền sở hữu của các hộ mà hợp tác xã thuê để tổ chức sản xuất. Do đó, ngoài sản phẩm phân phối theo ngày công lao động sản xuất, xã viên còn được nhận một phần sản phẩm hoa lợi, ruộng đất, công trâu bò, công dụng cụ sản xuất chung số lượng mình đóng góp vào mà hợp tác xã trả công. Sau khi được UBHC xã tổ chức cho học tập chủ trương đường lối, kế hoạch tổ chức của Trung ương, của tỉnh, HTX đã bước đầu tập trung lại có vốn, có nhân công, được phổ biến nghề nghiệp, Nhân dân nhận thấy có nhiều lợi ích trong làm ăn tập thể đã tập trung cho việc xây dựng hợp tác xã, nên từ khi hợp tác hình thành thì sản xuất phát triển hơn trước.

Tuy là xã thuộc vùng đất trung du của huyện Thạch Thành, nhưng xã Thạch Long lại tiếp giáp với hạ lưu sông Bưởi nên mùa khô thì thường gặp hạn hán, mùa nước lũ thường ngập lụt. Vì thế trong nông dân có câu ngạn ngữ: “Chưa nắng đã hạn, chưa mưa đã lụt”. Để bảo vệ mùa màng phát triển sản xuất, Chi bộ Đảng và Ủy ban hành chính xã đã lãnh đạo các tổ Đảng và chỉ đạo các hợp tác xã vận động nhân dân tăng cường đắp to bờ vùng, bờ thửa giữ nước, chống hạn và ngăn lũ. Thời bấy giờ công cụ lao động hoàn toàn bằng thủ công với các dụng cụ đào, đắp, đầm nén là cuốc, xẻng, quang, thúng, ky, đầm gỗ. Các hợp tác xã đã nhanh chóng ổn định tổ chức và tổ chức sản xuất tập thể. Đặc biệt, các HTX đã bắt tay ngay vào việc huy động nhân lực thực hiện các công trình kênh mương thủy lợi thiết yếu để phục vụ phát triển sản xuất. Các HTX đã điều động nhân công lên các công trình rất đông, đào đắp với khối lượng lớn và hoàn thành đúng kế hoạch khối lượng và thời gian. Những tuyến đường nội đồng mới được hình thành, đồng thời cũng là đường liên thôn, đã tạo thêm điều kiện thuân lợi cho Nhân dân đi lại, vận chuyển.

Để đẩy mạnh công tác thủy lợi hóa, Chi bộ tổ chức hội nghị đánh giá nhận rõ thế mạnh của HTX trong việc huy động lao động lên công trường thủ công làm thủy lợi và lợi ích nhiều mặt của việc đắp đập qua cánh đồng trũng Đá Bạc nhằm ngăn lũ tràn từ phía đông sang các cánh đồng phía tây của xã, đồng thời sẽ tạo ra cung độ giao thông rút ngắn và thuận tiện cho nhân dân toàn xã. Hội nghị đã nghị quyết: Mùa khô năm 1960 huy động nhân lực toàn xã đắp đê Đá Bạc với cao trình tương đương cao trình của eo giữa Đồi Con với Đồi Cốc.

Ngay sau hội nghị, Chi ủy đã chỉ đạo chính quyền, đoàn thể vận động nhân dân đắp con đê Đá Bạc để ngăn lũ cho đồng ruộng phía tây xã, đồng thời mở trục giao thông giữa xã vừa rút ngắn cung độ, vừa thuận tiện giao lưu cho tất cả các thôn trong xã. Con đập này sẽ là co đường thuận tiện cho học sinh, tránh việc đi vòng theo đường cây đa Đập Diệu vừa xa vừa bị ngập trong mùa mưa. Người dân thì rất phấn khởi vì con đập sẽ thường cứu được phần lớn diện tích đồng ruộng của xã. Các HTX lập tức có kế hoạch huy động nhân lực vừa đảm bảo xản xuất kịp thời vụ vừa phấn đấu hoàn thành khối lượng đào đắp do ban chỉ huy công trường của xã giao. Với ý chí quyết tâm, lòng tin tưởng phấn khởi trước công trình hợp ý đảng, lòng dân và sức mạnh của nhân dân được điều hành thống nhất của các hợp tác xã trên công trường thủ công, xã Thạch Long đã hoàn thành con đê Đá Bạc đúng tiến độ kế hoạch.

 Từ khi hình thành Hợp tác xã ở tất cả các xóm trong xã thì Hội nông dân là tổ chức quần chúng của nông dân giải tán. Việc tuyên truyền giáo dục nông dân là do Hợp tác xã nông nghiệp chịu trách nhiệm.

Do mới được thành lập, cán bộ Ban Quản trị, Ban Kiểm soát còn nhiều bỡ ngỡ nên trong thời gian đầu, hoạt động của các hợp tác xã còn chưa đi vào nền nếp. Nguyên tắc tự nguyện có thời điểm bị vi phạm, một số gia đình bị cưỡng ép vào hợp tác xã. Trong mùa vụ đầu tiên, năng suất lúa của các hợp tác xã chưa có nhiều chuyển biến so với năm trước.

Trước năm 1960, điều kiện giao thông của xã Thạch Long khó khăn. Muốn di chuyển đến các xã lân cận hoặc giữa các làng trong xã, người dân phải đi theo các đường mòn. Vào mùa mưa, nước dâng cao, nhân dân phải di chuyển bằng thuyền. Những chiếc thuyền lúc bấy giờ không chỉ là phương tiện đi lại mà còn giúp Nhân dân xã Thạch Long vận chuyển lúa ngoài đồng, củi từ rừng về nhà.

Bên cạnh lãnh đạo xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp, Đảng ủy và Ủy ban hành chính xã ngày càng chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo chăm lo đời sống văn hóa - tinh thần cho nhân dân. Đảng bộ và chính quyền cử cán bộ tham gia các lớp bồi dưỡng do huyện tổ chức về đường lối văn hóa của Đảng, xây dựng đội văn nghệ với mục đích phục vụ Nhân dân lao động. Phong trào “Đọc và làm theo sách báo, phim ảnh” bắt đầu được Nhân dân hưởng ứng. Thầy mo, thầy cúng, đồng cốt, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội giảm dần, truyền thống tốt đẹp của dân tộc được đề cao. Lúc này, nam nữ có quyền tự do tìm hiểu, tiến tới hôn nhân, lệ làm rể cũng bị xóa bỏ.

Phong trào bình dân học vụ và lớp học vỡ lòng được củng cố làm cơ sở cho phong trào giáo dục đồng bộ của xã do ông Phạm văn Nhượng làm trưởng ban bình dân học vụ. Phong trào thanh toán nạn mù chữ được đẩy mạnh thành cao trào. Nhiều hình thức tổ chức học tập, khen thưởng khuyến kích học tập được áp dụng (học theo liên gia kèm cặp ….lúc dỗi là học, đăng ký giúp nhau học theo gia đình, có sự chỉ đạo chặt chẽ của xã, huyện, sự cổ vũ động viên của cấp trên. Từ năm 1960 trở đi, đội ngũ giáo viên ngày càng đông: Thầy Minh, thầy Đạt, thầy Giải, thầy Rạch, thầy Hoan, thầy Hoàn, thầy Hữu, thầy Sực, thầy Thiệp, thầy Đoan, thầy Khang, thầy Chanh, thầy Quẩy, thầy Tơ, thầy Khởi, thầy Chỉnh, thầy Tiếp, thầy Kiềm... Trong đó các thầy đã được bổ nhiệm làm hiệu trưởng cho từng thời kỳ khác nhau là: Thầy Tơ, thầy Giản, thầy Minh, thầy Đạt, thầy Giải, thầy Rạch, thầy Hoan, thầy Hoàn, thầy Hữu, thầy Kiềm.

Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được Chi bộ quan tâm lãnh đạo. Các khẩu hiệu “sạch làng tốt ruộng, sạch bản tốt nương” được căng ở các làng trong xã. Cán bộ xã tuyên truyền, vận động nhân dân ăn chín uống sôi, ngủ mắc màn, phun thuốc DDT diệt muỗi, nuôi nhốt trâu, bò xa nhà. Tuy nhiên trong giai đoạn này, hiện tượng cúng bái khi có người ốm vẫn còn phổ biến, người dân còn chữa theo kinh nghiệm dân gian nên hiệu quả thấp.

Bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng bộ và chính quyền xã Thạch Long luôn coi trọng củng cố quốc phòng - an ninh. Trong thời điểm diễn ra cải cách ruộng đất, tình hình xóm làng phức tạp, không khí căng thẳng bao trùm. Nhiều phần tử xấu lợi dụng cải cách ruộng đất để lôi kéo đồng bào Công giáo vào Nam, bôi xấu chế độ và Đảng Lao động Việt Nam. Từ sau khi hoàn thành công tác sửa sai, tổ chức được kiện toàn, Chi bộ - Đảng bộ xã chỉ đạo Xã đội, công an bám sát địa bàn, xử lý nghiêm những kẻ phạm pháp. Lực lượng dân quân được tăng cường về số lượng, hoạt động huấn luyện từng bước đi vào nền nếp, kỹ thuật chiến đấu được nâng cao. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, xã đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giao quân trong đợt tuyển quân đầu tiên của huyện Thạch Thành vào tháng 3/1959.

Nhằm nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, cấp ủy đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đảng ủy xã cử một số cán bộ chủ chốt đi học tập, bồi dưỡng về chính trị do huyện tổ chức. Nội dung học tập gồm có: Chính sách đại đoàn kết dân tộc, đường lối hợp tác hóa trong nông nghiệp, Điều lệ Đảng Lao Động Việt Nam. Năm 1960, nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, nhiều quần chúng ưu tú của xã Thạch Long vinh dự được kết nạp và trở thành đảng viên “Lớp 6 - 1”. Tuy nhiên, một số đảng viên do trình độ, nhận thức còn nhiều hạn chế nên kết quả triển khai đường lối của Đảng vào thực tiễn chưa cao. Một số mặt lãnh đạo của cấp ủy còn buông lỏng, chưa sâu sát.

Tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được tổ chức trọng thể tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đề ra mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền, mối quan hệ của cách mạng 2 miền: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đến sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước. Đại hội còn đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất nhằm mục tiêu phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Nhân dân Thạch Long đã khắc phục khó khăn để tăng gia sản xuất, được tổ chức trong các hợp tác xã nông nghiệp. Đảng bộ được thành lập năm 1959 là bước ngoặt quan trọng đối với phong trào cách mạng, tiếp tục lãnh đạo nhân dân phấn đấu thực hiện thắng lợi Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất.

III. ĐẢNG BỘ XÃ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 - 1965)

Tháng 10 Năm 1960, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ 1960 - 1961 để đánh giá kết quả từ khi thành lập Đảng bộ. Thời điểm này, Đảng bộ Thạch Long có thêm Chi bộ Hoàng Tiến. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí. Đồng chí Đào Bá Tuynh được bầu làm Bí thư Đảng ủy.Đồng chí Phạm văn Nhượng chủ tịch UBHC.

Sau Đại hội, thực hiện đường lối của Đảng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân xã Thạch Long bắt tay vào thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất với tinh thần và khí thế mới. Phong trào hợp tác hóa, củng cố các hợp tác xã nông nghiệp được coi trọng và đẩy mạnh. Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Quản trị các hợp tác xã tổ chức cho xã viên học tập Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp, giáo dục tinh thần “hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ”.

Bước vào vụ sản xuất đông - xuân năm 1960 - 1961, Đảng ủy xã lãnh đạo nhân dân hưởng ứng chiến dịch vận động “Phất cao cờ hồng, quyết thắng đông - xuân, tiến quân toàn diện” nhằm mục tiêu phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, làm cơ sở cho sự phát triển công nghiệp. Trong khí thế mới, Thạch Long dấy lên phong trào thi đua “Sóng Duyên Hải”, “Gió Đại Phong”, “Cờ Ba nhất” với phương châm “người người thi đua, ngành ngành thi đua”.

Tháng 3 năm 1961, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị mở cuộc “Chỉnh huấn mùa xuân”. Chấp hành sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy Thạch Thành, Đảng ủy xã Thạch Long nghiêm túc tổ chức cho toàn thể cán bộ, đảng viên học tập 4 quan điểm cơ bản: Ý thức làm chủ và tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; tất cả để phục vụ sản xuất; ý thức cần, kiệm trong xây dựng nước nhà; quan điểm miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, đảng viên còn được quán triệt chống 4 biểu hiện: chủ nghĩa cá nhân, cục bộ; quan liêu mệnh lệnh; tham ô, lãng phí và bảo thủ, rụt rè.

Đầu năm 1961, Huyện ủy phát động phong trào cải tiến hợp tác xã theo phương châm 3 quản: quản lý lao động, quản lý sản xuất và quản lý tài vụ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Hợp tác xã tín dụng do ông Nguyễn Văn Úc làm Chủ nhiệm đầu nhiệm kỳ, sau đến ông Nguyễn Xuân Quang làm Chủ nhiệm và Hợp tác xã mua bán do ông Vũ Văn Tẩn làm Chủ nhiệm, đặt tại trụ sở Ủy ban hành chính xã.

Đảng bộ xã đã chỉ đạo đưa HTX quy mô xóm lên quy mô HTX liên xóm. Để tập trung lực lượng canh tác khai thác triệt để cánh đồng mới rộng rãi, phì nhiêu, Ủy ban hành chính xã quyết định sáp nhập 3 HTX nông nghiệp ở 3 làng bao quanh xứ Đồng Lỳ thành một HTX cấp liên thôn. Các HTX Sơn Hà, Cổ Lăng và Hoàng Tiến đã được sáp nhập thành một HTX nông nghiệp, lấy tên là Sơn Lăng Tiến. Như vậy, số diện tích canh tác đã được chia về các đội gần nơi cư trú để tiện canh tiện cư và thuận tiện cho điều hành của hợp tác xã. Với sức mạnh của hợp tác xã có quy mô lớn, toàn bộ diện tích xứ Đồng Lỳ rộng lớn đã nhanh chóng trở thành vựa lúa của Thạch Long.

Đi đôi với phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, Hợp tác xã Tín dụng, Hợp tác xã Mua bán được củng cố và tăng cường, duy trì hoạt đông thường xuyên, liên tục,tích cực đáp ứng yêu cầu của Hợp tác xã nông nghiệp và phục vụ đời sống nhân dân trong xã. Hợp tác xã tín dụng đã vận động 100% số hộ tham gia đóng khẩu phần 30 đồng/hộ. Số tiền hợp tác xã tín dụng huy động được chuyển cho hợp tác xã mua bán vay lại làm vốn kinh doanh mua hàng về phục vụ nhân dân và gửi tiết kiệm tại ngân hàng huyện. Năm 1964 thành lập HTX Vườn Hoa.

Từ tháng 10 năm 1961 đến năm 1965, Đảng bộ xã Thạch Long tiến hành 4 nhiệm kỳ Đại hội:

- Đại hội Đảng bộ xã Thạch Long lần thứ III, nhiệm kỳ 1961 - 1962 vào tháng 10 năm 1961. Đại hội thảo luận kết quả lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa II, nêu rõ thành tựu và chỉ ra hạn chế. Đại hội đề ra phương hướng trong những năm 1961 - 1962 để cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn đấu hoàn thành. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí, trong đó đồng chí Đào Bá Tuynh được bầu giữ chức Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Phạm văn Nhượng chủ tịch UBHC

  - Tháng 10 năm 1962 Đại hội Đảng bộ lần thứ IV, nhiệm kỳ 1962-1963, Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí; Đồng chí Đào Bá Tuynh được bầu làm Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Phạm văn Nhượng chủ tịch UBHC

        - Tháng 10 năm 1963 Đại hội lần thứ V (nhiệm kỳ 1963 - 1964), Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí; Đồng chí Đào Bá Tuynh được bầu làm Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Phạm Văn Nhượng - Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC xã.

  - Tháng 10 năm 1964 Đại hội lần thứ VI, nhiệm kỳ 1964 - 1965. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí; Đồng chí Nguyễn Chí Tụ được bầu làm Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Phạm Văn Nhượng - Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC xã.

Với phương châm hợp tác hóa đi đôi với thủy lợi hóa, nhiều công trình thủy lợi của xã được xây dựng trong giai đoạn này. Dòng sông Bưởi chảy qua địa bàn xã Thạch Long có đặc điểm lòng sông hẹp, uốn khúc lớn, chảy qua vùng đá vôi nên nước dâng nhanh sau trận mưa lớn nhưng cũng rút đi nhanh chóng sau đó. Thực hiện kế hoạch của Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện, năm 1962, nhân dân xã Thạch Long hăng hái tham gia xây dựng đê sông Bưởi. Góp phần cùng nhân dân toàn huyện xây dựng tuyến đê vừa chế ngự được nước sông Bưởi, vừa trở thành con đường quan trọng của xã.

Ngày 19/2/1963, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết về “Cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc”. Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị, Đảng ủy tập trung chỉ đạo nhân dân thực hiện 3 nội dung sau: Cải tiến quản lý hợp tác xã; cải tiến kỹ thuật và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của hợp tác xã; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hợp tác xã. Đảng ủy tổ chức các buổi học tập về nội dung và ý nghĩa của cuộc vận động này cho cán bộ, đảng viên và xã viên; đồng thời, chỉ đạo các hợp tác xã tích cực áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.

Trong quá trình hoạt động, các hợp tác xã nông nghiệp ở xã Thạch Long dần bộc lộ khiếm khuyết. Trình độ của cán bộ thấp nên tổ chức phân công lao động chưa hợp lý. Do hiện tượng “cha chung không ai khóc” nên công cụ lao động dù mua mới nhưng chỉ sau mấy vụ đã hỏng. Phong trào cải tiến kỹ thuật tuy có áp dụng rộng rãi nhưng thiếu đồng bộ và thường xuyên nên năng suất lao động chưa cao. Phân phối không công bằng dẫn đến hiện tượng so bì, tị nạnh giữa các xã viên làm cho tình làng nghĩa xóm bị rạn nứt.

Trong công tác lãnh đạo Đảng ủy, chính quyền xã rất chú trọng đến chăn nuôi, nhất là chăn nuôi tập thể. Các gia đình xã viên nhận nuôi trâu, bò của hợp tác xã đều chăm sóc tốt nên vật nuôi ít bị ốm, đảm bảo sức kéo khi cần thiết. Nhờ cấp ủy và chính quyền xã thường xuyên tuyên truyền nên đa số nhân dân đều nộp lợn nghĩa vụ đầy đủ.

Cuối năm 1963, xã Thạch Long phải chịu trận bão lớn rồi hạn hán. Nhà cửa, hoa màu của nhân dân bị thiệt hại nặng nề. Toàn xã có trên 80% hộ thiếu đói trầm trọng. Trước tình hình đó, Đảng ủy - Ủy ban hành chính đề nghị Ủy ban hành chính huyện giúp đỡ về lương thực, thực phẩm, sau đó chia cho các hộ gia đình gặp khó khăn. Sau thiên tai, nhân dân chuyển sang sản xuất rau màu, khoai lang và tận dụng thực phẩm từ tự nhiên. Điều đó giúp cho tình trạng đói ở Thạch Long bớt gay gắt, cả xã không có người bị chết vì đói.

Hưởng ứng cuộc vận động đồng bào miền xuôi xây dựng kinh tế miền núi của Đảng, từ năm 1962 đến năm 1964, nhân dân các huyện Hoằng Hóa, Vĩnh Lộc đã định cư đến xã Thạch Long:

- Năm 1962: xã Hoằng Đại (Hoằng Hóa) chuyển cư đến Thạch Long 70 hộ, đến năm 1963 thêm 28 hộ, tổng số 98 hộ. Cư trú trên sườn phía đông núi Hang Ma, trải dài từ vùng giáp Khe Sâu tới Đòi Mỏ giáp xã Vĩnh Long (huyện Vĩnh Lộc), đặt tên là làng Đại Long. Xã Hoằng Tiến (Hoằng Hóa) chuyển cư đến Thạch Long 31 hộ, cư trú trên dải đất thoải phía đông núi Thánh, trải dài từ giáp Đồi Con đến tận khu Mả Hổng giáp Thạch Đồng, đặt tên là làng Hoằng Tiến.

- Năm 1964: Vĩnh Khang (Vĩnh Lộc) chuyển đến 12 hộ, cư trú tại khu sườn phía Đông núi Hang Ma, đặt tên là làng Đại Khang. Làng Sơn Hà xã Hoằng Đại (Hoằng Hóa) chuyển đến 12 hộ, cư trú tại Đồng Cò, đặt tên là làng Sơn Hà. Với truyền thống đoàn kết không phân biệt lương - giáo, miền ngược, miền xuôi, nhân dân trong làng Cự Lý hết lòng giúp đỡ nhân dân định cư. Nhờ vậy, những gia đình từ xã Hoằng Đại chuyển lên nhanh chóng ổn định cuộc sống.

Khi thành lập các hợp tác xã nông nghiệp, bên cạnh chăn nuôi cá thể, chăn nuôi tập thể của xã Thạch Long hình thành và ngày càng phát triển. Trâu, bò của hợp tác xã giao cho xã viên nuôi rồi trả công theo điểm. Đầu năm 1961, hợp tác xã Đại Dương lập trại chăn nuôi lợn gồm 50 con, do ông Lê Ngọc Nhã phụ trách chăn nuôi, các gia đình chưa chú ý đến làm chuồng trại mà nuôi nhốt dưới nhà sàn.

Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao có bước phát triển mới. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ hướng đến quần chúng, tạo phong trào sôi nổi trong các hợp tác xã. Thấm nhuần đường lối của Đảng và tư tưởng “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” của Hồ Chủ tịch, công tác văn hóa, văn nghệ hướng vào phục vụ các nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Các làng xây dựng được tổ, đội văn nghệ, góp phần làm phong phú hơn đời sống tinh thần của bà con nhân dân trong xã. Công tác thông tin tuyên truyền được chú trọng, nhân dân kịp thời nắm bắt đường lối của Đảng, tình hình tại địa phương. Đội chiếu bóng 108 và 366 của huyện định kỳ về phục vụ nhân dân từ 2 đến 3 lần trong năm bằng những bộ phim có nội dung ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, lòng yêu nước.

Cùng với nhiệm vụ phát triển sản xuất, công tác giáo dục cũng được Đảng bộ quan tâm. Với khẩu hiệu “đi học là yêu nước”, phong trào xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa tiếp tục lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia. Bên cạnh đó, giáo dục phổ thông cũng đạt được kết quả đáng khích lệ. Hằng năm, các hợp tác xã được giao nhiệm vụ đóng góp tre, rạ, gỗ, ngày công để sửa chữa lớp học của trường Phổ thông cấp I. Nhờ đó, thầy và trò nhà trường an tâm hơn trong dạy và học. Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy và Ủy ban hành chính xã, mỗi hợp tác xã đều thành lập nhà trẻ, tạo điều kiện cho phụ huynh yên tâm lao động sản xuất. Hằng năm, nhà trường đều cử giáo viên đi học tập, bồi dưỡng về phương pháp sư phạm và kiến thức chuyên môn do huyện tổ chức. Bình quân sau mỗi năm học, trên 90% học sinh trường Phổ thông cấp I Thạch Long lên lớp và tốt nghiệp. Thông qua bổ túc văn hóa, nhân dân được nâng cao trình độ, dễ dàng nắm bắt tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

Đảng ủy và Ủy ban hành chính xã luôn quan tâm đến chăm lo sức khỏe của nhân dân. Từ năm 1956, Trạm xá xã Thạch Long được xây dựng, ông Lê Văn Luyện được phân công làm Trạm trưởng. Trong 5 năm (1961 - 1965), xã đẩy mạnh vận động nhân dân thực hiện 5 dứt điểm: xây nhà vệ sinh, giếng nước, nhà tắm; rời chuồng trâu, bò xa nhà ở; sửa sang Trạm xá, lập tủ thuốc; giữ gìn vệ sinh và xây dựng nhà ủ phân cho các đội sản xuất ở hợp tác xã. Cán bộ Trạm xá tích cực vận động nhân dân không nuôi nhốt trâu, bò dưới nhà sàn, gần nơi ở; không phóng uế ra suối. Trong giai đoạn này, công tác tiêm phòng một số bệnh như sốt rét, ho gà, uốn ván bắt đầu được Trạm xá thực hiện. Tình trạng cúng bái khi ốm đau giảm hẳn so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ y tế vừa thiếu về số lượng, vừa thấp về chuyên môn. Tình trạng thiếu thuốc phục vụ chữa bệnh cho nhân dân thường xuyên xảy ra. Các phong trào phòng, chống dịch bệnh thường diễn ra sôi nổi theo đợt rồi lắng xuống.

Trong thời gian thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã luôn xác định củng cố vững chắc quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên. Ban Chỉ huy Xã đội thực hiện tốt chế độ báo cáo định kỳ, làm tốt công tác tham mưu để xây dựng các phương án tác chiến trong từng năm. quan tâm củng cố lực lượng dân quân, du kích đủ về số lượng, chỉ đạo thường xuyên luyện tập để sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Tiếp tục thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự được Quốc hội khóa I thông qua tại kỳ họp thứ 12 ngày 15/4/1960, Xã đội tiến hành rà soát lực lượng thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ, tạo cơ sở cho công tác tuyển quân. Trong 5 năm (1961 - 1965), có 18 người con của xã lên đường nhập ngũ, đạt 100% chỉ tiêu được giao. Công an xã bám sát địa bàn, vận động nhân dân nâng cao cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ và tay sai. Ở các hợp tác xã đều có lực lượng công an viên, kịp thời đấu tranh, bắt giữ với những đối tượng phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1961 đến năm 1965, tình hình an ninh của xã Thạch Long cơ bản ổn định, nhân dân yên tâm sản xuất.

    Về công tác xây dựng Đảng: Sau mỗi kỳ đại hội, để hoàn thành các nhiệm vụ chính trị, cấp ủy đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Giữa năm 1962, Ban Bí thư Trung ương Đảng phát động cuộc vận động xây dựng “Chi bộ - Đảng bộ bốn tốt”. Kết quả, có trên 80% đảng viên trong Đảng bộ thực hiện đợt sinh hoạt chính trị và cuộc vận động do Trung ương Đảng đề ra. Công tác tự phê bình và phê bình được coi trọng. Đa số cán bộ, đảng viên ý thức tốt hơn về vai trò và trách nhiệm của mình, tích cực trong công tác và gương mẫu trong sinh hoạt.Hằng năm, Đảng ủy xã đã tổ chức sinh hoạt chính trị - tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt giải thích rõ về cuộc đấu tranh giữa “2 con đường” tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội.

Giữa lúc nhân dân miền Bắc đang ra sức thi đua hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1965, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, thì đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại nhằm phá hoại công cuộc kiến thiết miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của từ miền Bắc vào miền Nam, làm lung lạc ý chí đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của nhân dân ta. Mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng việc dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc bộ” ngày 4 tháng 8 năm 1964.

Ngày 5 tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ điên cuồng cho máy bay ném bom một số nơi ở miền Bắc, trong đó có đảo Hòn Mê và cửa biển Lạch Trường (Thanh Hóa). Trước tình hình đó, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Thạch Long chỉ đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể khẩn trương phổ biến sâu rộng tình hình nhiệm vụ mới cho hội viên, đoàn viên và nhân dân trong xã vừa sản xuất, vừa thực hiện phương án lập hệ thống phòng không sẵn sàng chiến đấu. Đầu năm 1965, xã đã hoàn thành hệ thống giao thông hào trên địa bàn, thành lập các tổ dân quân tự vệ, các tổ xung kích như tổ vận động nhân dân đi sơ tán, tổ cứu thương, tải thương,vv… Tất cả mọi mặt đã được Đảng bộ và Nhân dân xã Thạch Long chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Nhìn lại 10 năm (1954 - 1965) tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Thạch Thành, Đảng bộ và Nhân dân xã Thạch Long đã đạt được những thành tích cơ bản trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập, nhân dân phấn khởi hăng hái thi đua lao động xây dựng hợp tác xã vững mạnh. Cơ sở vật chất bước đầu được xây dựng và phát huy một cách hiệu quả trong phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, đời sống của nhân dân từng bước được nâng cao, bộ mặt làng quê dần đần được thay đổi. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, luôn nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu trong công tác, được quân chúng tín nhiệm. Thành tựu đó góp phần cùng nhân dân miền Bắc thực hiện thành công kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), tạo thế và lực mới sẵn sàng đập tan cuộc chiến tranh leo thang phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

IV. VỪA SẢN XUẤT, VỪA CHIẾN ĐẤU VÀ PHỤC VỤ CHIẾN ĐẤU, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI MIỀN BẮC, CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN ĐÁNH THẮNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1965 - 1975)

1.Đảng bộ lãnh đạo chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến, vừa sản xuất vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ xâm lược (1965 - 1972)

Trước âm mưu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 3 năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tổ chức hội nghị lần thứ 11 bàn về “tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt” đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc lúc này là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới, để miền Bắc có đủ sức mạnh kịp thời đáp ứng yêu cầu bảo vệ miền Bắc, chống lại các cuộc ném bom bắn phá và phong tỏa của địch, nhằm sẵn sàng đối phó với khả năng địch mở rộng chiến tranh ở bất cứ mức độ nào ở miền Nam, miền Bắc cũng như ở Lào, nhằm đáp ứng yêu cầu chi viện to lớn cho cách mạng miền Nam, đồng thời vẫn đáp ứng yêu cầu tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”.

  Ngày 10 tháng 4 năm 1965, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa III, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quân, toàn dân: “Lúc này, chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước…Tất cả chúng ta hãy đoàn kết, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

  Trước tình hình nhiệm vụ mới, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy Thạch Thành đã mở nhiều hội nghị để quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, âm mưu và thủ đoạn mới của đế quốc Mỹ, trong đó cán bộ xã Thạch Long tham dự đầy đủ với tỷ lệ 100%. Huyện ủy cũng phát động cao trào: Toàn dân đánh giặc, toàn dân làm công tác phòng không nhân dân, từng bước xây dựng lực lượng quân sự vững mạnh.

  Phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng kiên cường, Đảng bộ và Nhân dân xã Thạch Long sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới: vừa sản xuất, vừa xây dựng, vừa sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

  Tháng 10 năm 1965, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, Đảng bộ xã Thạch Long tiến hành Đại hội lần thứ VII, nhiệm kỳ 1965 - 1966 được tổ chức. Nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ trong thời gian tới được đại hội đề ra là: Tập trung đẩy mạnh sản xuất, tổ chức phòng tránh tốt, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí; Đồng chí Nguyễn Chí Tụ được bầu làm Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Phạm Văn Nhượng - Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC xã. Đồng chí Đoàn Quang Nông làm thường vụ Trực Đảng.

Trên mặt trận sản xuất: Trong bối cảnh vừa phải chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Đảng ủy vẫn chú trọng lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của địa phương và chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

Tháng 8 năm 1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 107-CT/TW về việc “Tiếp tục một bước cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới”. Quán triệt Chỉ thị của Ban Bí thư và sự lãnh đạo của Đảng ủy xã, hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương có sự chuyển biến tích cực. Trước khi mùa vụ diễn ra, xã viên kẻ vẽ băng rôn, khẩu hiệu nêu cao tinh thần quyết tâm thi đua sản xuất, vượt kế hoạch đề ra. Nhân dân tăng cường sử dụng phân chuồng bón cho lúa. Bình quân mỗi sào lúa được bón từ 8 đến 10 gánh phân chuồng. Ngoài ra, xã viên còn tăng cường sử dụng phân xanh, phân hóa học để bón lúa và dùng vôi để cải tạo và tăng độ màu mỡ cho đất.

Sau khi xây dựng các hợp tác xã bậc cao, Nhân dân xã Thạch Long đã chuyển phần lớn diện tích sang canh tác 2 vụ lúa và 1 vụ màu. Trong số các cây trồng vụ đông, cây ngô đóng vai trò quan trọng nhất. Cây ngô thường được trồng ở các các bãi đầu sông, các đồi chủ yếu là ngô 3 tháng. Phong trào làm bèo hoa dâu, làm phân xanh, cấy thẳng hàng, xây dựng cánh đồng 5 tấn… lôi cuốn đông đảo Nhân dân hưởng ứng.

Trong chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân và hải quân Mỹ, địa bàn xã Thạch Long có quốc lộ 12B chạy qua huyện lỵ Thạch Thành, huyện lỵ Vĩnh Lộc, Bến phà Cổ Tế nối hai bờ địa bàn xã Thành Hưng và Thạch Long. Với vị trí quan trọng này, Thành Hưng - Bến phà Cổ Tế - Thạch Long trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ.

Thời gian này, phương tiện qua sông của bến phà Cổ Tế rất thiếu thốn, ban đầu chỉ có một chiếc phà sắt vượt sông bằng sức người chống đẩy trực tiếp kết hợp với tời cáp cùng với một chiếc đò ngang bằng gỗ. Phà cũng như đò được ngụy trang và luôn tận dụng mọi thời cơ vận tải người và các phương tiện, thiết bị cho chiến trường, phục vụ sản xuất, chiến đấu và sinh hoạt của nhân dân. Tuy nhiên, nhu cầu vận chuyển ngày càng tăng. Hai phà cũ kỹ nên không đủ tải, đặc biệt là những dịp địch tập trung cao đánh chặn quốc lộ I thì các phương tiện vận tải lại di chuyển theo đường 12B. Dù cố gắng đến đâu thì ùn tắc vẫn diễn ra thường xuyên. Có những ngày lượng xe ùn tắc chờ đợi ở hai bờ đến vài cây số. Nhiều khi rất căng thẳng trong điều kiện máy bay địch thả pháo sáng soi tìm, quần đảo trên bầu trời, phà không thể tăng chuyến hơn nữa. “Cái khó ló cái khôn”, huyện Thạch Thành đã nảy ra sáng kiến làm cầu phao bằng cây luồng. Những bè luồng từ các xã Thạch Lâm, Thạch Quảng, Thạch Cẩm, Thành Mỹ, Thành Trực… được đưa tới. Từng cây luồng cắt với độ dài bằng nhau xếp ngay ngắn, vuông vức, dùng các thanh gỗ hoặc thanh sắt đóng gông thành từng mảng hình hộp, ghép các mảng lại với nhau thành một cây cầu nổi nối qua sông, dùng dây cáp cố định hai đầu. Khi nước dâng, sông rộng thêm thì nối thêm phao, nước xuống, lòng sông hẹp lại thì tháo bớt phao. Ban ngày tháo rời từng phao kéo đi dấu dọc bờ sông. Chiều đến lại đưa phao về bến kết thành cầu nổi để xe pháo qua sông. Nhờ đó, phà Cổ Tế có hai luồng qua sông: một luồng tải bằng phà sắt, một luồng tải bằng cầu phao luồng. Kinh nghiệm bắc cầu phao luồng được Ty Giao thông Thanh Hóa phổ biến và áp dụng ở nhiều bến phà khác. Bến cầu phao mới bằng luồng được Nhà nước mở thêm ở phía thượng nguồn bến phà Cổ Tế, cách bến phà chính khoảng 300m, nơi đây có cây thị cao và những lũy tre che trở. Những ngày cao điểm có nhiều phương tiện cơ giới hoặc tên lửa, xe bọc thép hành quân còn thêm cầu phao hợp kim nhôm là cầu phao do công binh đảm bảo vận tải cơ giới quân sự. Thạch Long là nơi cư trú của các đơn vị bộ đội, dừng chân nghỉ lại trên đường hành quân vào Nam chiến đấu. Đò ngang cùng cầu phà ngày đêm chuyển cán bộ, bộ đội qua sông luôn luôn giữ vững mạch máu giao thông trong bất kỳ tình huống nào. Những đợt trong điểm vận tải qua sông số người đông, hàng hóa và phương tiện nhiều thì chính quyền xã lại huy động thêm nhân dân đưa thuyền nan ra phục vụ trong bất cứ thời gian và hoàn cảnh nào.

Từ giữa năm 1965, nhiều vị trí của Thạch Thành đã trở thành mục tiêu oanh tạc của không lực Hoa Kỳ. Trong đó các đường quốc lộ chạy qua là trọng tuyến. Một khi lưu thông trên quốc lộ 1A bị gián đoạn ở một nơi nào đó thì trục đường 12B trở thành trục chính lưu thông từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc. Mỗi ngày khi bóng hoàng hôn buông xuống là có hàng dài mấy chục xe quân sự của bộ đội ta từ rừng cao su Nông trường quốc doanh Vân Du và đường làng các xã Thành Vân, Thành Tân, Thành Thọ, Thành An, Thành Kim… xếp hàng dài trên địa phận xã Thành Hưng để chờ vượt sông Bưởi vào chiến trường miền Nam. Bên bờ Nam từ Cổ Tế đến làng Bèo cũng có nhiều xe chờ vượt cầu phà Cổ Tế ra Bắc.

 Nơi đây, máy bay Mỹ thường xuyên hoạt động. Thường ngày hàng tốp 5-7 chiếc, những máy bay hiện đại của Mỹ “Thần sấm”, “con ma” ngày đêm nhào lộn. Chúng quần đảo diễu uy sức mạnh không lực Hoa Kỳ, phát ra tiếng rít xé trời, inh tai buốt óc, thả pháo sáng, ném bom bắn phá bừa bãi gây thiệt hại cho cả quân đội và nhân dân, nhằm lung lạc tâm lý của nhân dân. Vì vậy cuộc chiến đấu để giữ cho mạch máu giao thông được duy trì liên tục luôn ở cấp độ quyết liệt. Cứ mỗi lần máy bay địch rà xuống khu vực là súng của các lực lượng phòng không lại đồng loạt bắn trả thành lưới lửa đan dày làm cho máy bay địch phải liệng, lách, nâng độ cao không thể ổn định đường ngắm bổ nhào để có thể đánh trúng mục tiêu. Ngày đêm không mấy khi ngớt đạn bom khói lửa. Ban đêm thì pháo sáng và đạn phòng không rực trời. Các cuộc chiến đấu diễn ra bất kể nắng, mưa, đêm, ngày cứ có máy bay địch đến là đánh đuổi.

Ngày 01/7/1965, ba chiếc máy bay phản lực Mỹ từ hướng đông nam bay vào ném bom xuống bến phà và trận địa pháo phòng không của ta. Dân quân trực chiến của xã Thạch Long cùng dân quân xã Thành Hưng phối hợp với bộ đội phòng không bắn trả quyết liệt máy bay Mỹ. Chúng phải vội vàng trút bom bừa xuống khu vực rồi chuồn thẳng ra phía biển Đông. Theo đài quan sát cho biết, trận đánh này, một máy bay phản lực Mỹ bị thương.

  Nhận thấy diễn biến cấp độ và thủ đoạn đánh phá của không quân Mỹ càng phức tạp điên cuồng, Đảng bộ và chính quyền đã phân công cán bộ bám sát các địa bàn trong điểm để kịp thời rút kinh nghiệm và chỉ đạo kịp thời. Cứ sau mỗi lần máy bay Mỹ oanh tạc, cán bộ cùng dân rút kinh nghiệm và phổ biến bổ sung các kinh nghiệm phòng tránh bom đạn Mỹ, đồng thời khơi dậy lòng căm thù giặc Mỹ tàn ác, động viên tinh thần và khắc phục những hậu quả thất thiệt, tổ chức ổn định cuộc sống của Nhân dân. Cách phòng tránh hiệu quả hơn là đào hầm trú ẩn ngay trong nhà, ngoài vườn, dọc đường đi, hầm chữ A nửa chìm nửa nổi. Dọc hai bên đường từ bến phà Cổ Tế đi Thành Hưng, đi làng Bèo cứ khoảng chục mét có một hầm trú ẩn cá nhân do lực lượng dân quân đào và thường xuyên nạo vét, vệ sinh, củng cố. Mỗi gia đình đều đào hố cá nhân cạnh giường nằm và hầm chữ A cạnh nhà. Hầm chữ A có tác dụng chống bom phá, bom sát thương và đạn xuyên thẳng. Hầm được cấu tạo theo hình chữ T hoặc chữ L. Phần đáy hầm được đào sâu từ 0,8m - 1m. Phần trên được chống chéo bằng gỗ hoặc tre luồng sát vào nhau rồi đắp đất dày 0,50 mét trở lên. Trong hầm, người trú ẩn có thể đứng, ngồi hoặc nằm. Công tác phòng tránh được đặc biệt chú trọng đối với các lớp học phổ thông, vỡ lòng và nhóm trẻ. Mỗi lớp học đều được chọn đặt nơi có nhiều tán cây che khuất, có độ cao để đào đủ hầm hào phòng tránh bom đạn và thoát nước.

Không quân Mỹ cũng nhận thấy quá trình ném bom thì đa phần không trúng mục tiêu vì máy bay phải đối phó với lưới lửa phòng không. Nhiều khi chúng phải lượn trên cao và bắn tên lửa. Nhưng việc bắn từ xa chỉ có lợi cho việc đảm bảo an toàn, nhưng xác suất bắn phá trúng đích lại thấp. Chúng lại dùng thủ đoạn thả bom tìm nhiệt để đánh vào những phương tiện vận tải, vũ khí, khí tài đang hoạt động phát ra nhiệt độ cao. Chúng ta lại tạo ra những lò than hầm, những thùng phi đốt than có nhiệt độ cao hơn các phương tiện để diệt bom tìm nhiệt. Giặc Mỹ càng điên cuồng bắn phá có tính hủy diệt bằng bom bi, bom cháy, bom khoan vào làng. Mặc dù Thạch Long có những tổn thất làm nhiều người bị thương và nhiều tài sản bị phá hại, song dân làng và bộ đội, dân quân vẫn kiên cường bám trụ vừa sản xuất vừa phục vụ chiến đấu và trực tiếp chiến đấu với giặc Mỹ ngay trên quê hương mình. Nhân dân Thạch Long đã phối hợp với bộ đội phòng không và dân quân xã bạn đánh trả quyết liệt làm cho giặc lái Mỹ hoảng sợ, đánh trật mục tiêu, bắn phá bừa bãi rồi tháo chạy. Lực lượng dân quân còn làm nòng cốt, cùng toàn dân tổ chức phòng tránh tốt. Thạch Long còn tổ chức đội thanh niên xung phong 100 người, trong đó đa phần là thanh nữ. Thanh niên xung phong đào hàng trăm hầm cá nhân, hàng nghìn mét hào giao thông dọc theo quốc lộ 12B và công sở, trường học, đóng góp hàng nghìn ngày công san lấp hố bom, đào đắp trận địa pháo, sữa chữa mặt đường, cứu thương, chống lầy, sửa chữa bến phà, làm tiêu dẫn đường cho xe những khi có máy bay Mỹ hoạt động trong khu vực xe không thể bật đèn... Thanh niên xung phong phối hợp với công nhân bến phà và dân quân cứu vớt kịp thời những xe ô tô và phà bị chìm.

Đảng bộ luôn quán triệt nhiệm vụ hàng đầu là sản suất và chiến đấu luôn luôn được coi trọng; mặt khác phải tổ chức tốt công tác phòng tránh cho nhân dân, kiềm tra, đôn đốc từng gia đình đào hầm chữ A, hào chữ Z. Các em học sinh đi học đội mũ rơm, người và xe đạp có ngụy trang. Nghe kẻng báo động, người không có nhiệm vụ chiến đấu, người già và trẻ em nhanh chóng xuống hầm trú ẩn, đề phòng máy bay Mỹ bắn phá. Do công tác phòng không nhân dân được chú ý nên những đợt bắn phá của máy bay Mỹ đã hạn chế được tổn thất đáng kể về người và của.

Thấm nhuần đường lối chiến tranh nhân dân và phát huy những bài học kinh nghiệm trong chiến tranh chống Pháp, Thạch Long đã phát động cao trào toàn dân đánh giặc, toàn dân làm công tác phòng không nhân dân, toàn dân nêu cao cảnh giác bảo mật, phòng gian, từng bước xây dựng lực lượng quân sự, luyện tập quân sự, thành lập các đội trực chiến, dân quân tự vệ, thanh niên xung phong sẵn sàng chiến đấu, san lấp hố bom, làm giao thông, làm cầu phao, cất dấu phà, cầu phao, bắn máy bay, giúp đỡ bộ đội hành quân qua xã, giúp đỡ đơn vị pháo cao xạ ngụy trang trận địa, đào đắp công sự trận địa pháo phòng không, vận chuyển đạn, cứu thương...

  Trong các thôn xóm, nêu cao ý thức phòng gian bảo mật, quyết không sợ giặc. Các khẩu hiệu: “Tay cày, tay súng”, “ Kiên quyết bắt giặc Mỹ phải đền tội ác” đã trở thành ý chí và hành động của mọi người dân. Phong trào:“3 sẵn sàng”(1) trong thanh niên được phát động rộng rãi. Trong phụ nữ có phong trào:“3 đảm đang”(2). Thực hiện khẩu hiệu: “Giỏi việc nước, đảm việc nhà, phấn đấu thực hiện nam nữ bình đẳng”. Phong trào đã được chị em hưởng ứng và có nhiều tấm gương đảm đang để chồng con yên tâm đi chiến đấu. Đặc biệt, phong trào quyết thắng của dân quân tự vệ được phát triển sâu rộng và mạnh mẽ, cả xã hừng hực khí thế đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Dù khó khăn đến đâu, nhân dân Thạch Long cũng làm tròn trách nhiệm với tiền tuyến lớn. Toàn xã đã huy động lương thực, thực phẩm giao nạp hoàn thành tốt các nghĩa vụ được giao. Hội phụ nữ xã vận động chị em quyên góp gạo, tiền, ngày công giúp đỡ các gia đình chính sách. Hàng năm, đợt tuyển quân nào xã cũng hoàn thành và vượt chỉ tiêu giao quân.

Quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã thành lập Ban Phòng không nhân dân do đồng chí Phạm văn Nhượng - Chủ tịch Ủy ban hành chính xã làm Trưởng ban. Nhiệm vụ của Ban Phòng không nhân dân xã là giúp cấp ủy và chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng không (bao gồm cả công tác phòng tránh, sơ tán và đánh địch).

Ban Chỉ huy Xã đội tăng cường chỉ đạo lực lượng dân quân xã, củng cố và phát triển về số lượng, tổ chức huấn luyện quân sự, bồi dưỡng về chính trị, từ đó nêu cao quyết tâm bảo vệ quê hương, đánh trả có hiệu quả các trận ném bom của địch. Lực lượng dân quân địa phương vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng đánh địch phá hoại, vừa làm nhiệm vụ xung kích trên mặt trận nông nghiệp. Dân quân, du kích tham gia thi đua cấy thẳng hàng, nhiều nữ dân quân, du kích còn học cày bừa, sẵn sàng thay thế khi nam giới lên đường đi bộ đội. Đội cứu thương, cứu sập hầm được thành lập trải qua tập huấn, bồi dưỡng kiến thức thông thường về sơ cứu, được trang bị 1 túi thuốc, một số dụng cụ cứu thương, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Khẩu hiệu “tay cày tay súng”, “kiên quyết bắt giặc Mỹ phải đền tội” được kẻ vẽ ở mỗi làng, có sức cổ động to lớn đối với lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc của nhân dân.

Tháng 10 năm 1966, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội lần thứ VIII, nhiệm kỳ 1966 - 1968. Về thành tựu đạt được trong công tác lãnh đạo của Đảng bộ, Đại hội đánh giá: Trong những năm 1964 - 1966, phong trào hợp tác hóa tiếp tục đi lên, đời sống của nhân dân được cải thiện; sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế được chăm lo; an ninh trật tự được giữ vững; năng lực lãnh đạo của Đảng bộ được nâng cao một bước. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ mới là: đẩy mạnh phong trào thi đua “ 3 giỏi”(1) chống Mỹ cứu nước, góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.

  Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí. Đồng chí Vũ Văn Mẹo được bầu làm Bí thư Đảng ủy.đến tháng 5 năm 1967, đồng chí Phạm Văn Thạo làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Vũ Văn Mẹo làm Chủ tịch UBHC xã. Đồng chí Nguyễn Chí Tụ làm thường vụ Trực Đảng.

 Thực hiện nghị quyết Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ phát động toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong xã thực hiện phong trào thi đua “Ba giỏi” do tỉnh và huyện phát động.

Ngày 17/7/1966, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi đồng bào, chiến sỹ cả nước: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Cán bộ, đảng viên và Nhân dân xã Thạch Long đoàn kết một lòng, tin theo ngọn cờ cách mạng do Đảng lãnh đạo và quyết tâm hoàn thành mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Những năm 1966-1967, quy mô và cường độ đánh phá của không quân Mỹ ác liệt hơn nhiều so với năm 1965. Trục đường, bến phà, làng mạc, bè luồng trôi theo sông, con trâu ăn cỏ trên đồng đều trở thành mục tiêu đánh phá của không lực Hoa Kỳ, hòng ngăn chặn đường tiếp viện vào chiến trường và uy hiếp tinh thần của Nhân dân ta.

Trưa ngày 19/10/1966, một tốp 3 máy bay phản lực Mỹ ném bom, bắn rốc két xuống chiếc cống tiêu úng khu vực Tụng Bò (thôn Hợp Tiến, xã Thành Hưng) và chiếc bè luồng trên sông, làm chết 01 người, bị thương 2 người, phá sập một ngôi nhà, hư hỏng gần 100 mét đê sông.

Đầu năm 1967, máy bay Mỹ ném bom xuống giữa xóm 8 (thôn Hợp Thành) trúng hầm trú ẩn làm chết 4 người. Một tốp máy bay Mỹ ném một loạt bom xuống bờ sông nơi giáp ranh giữa làng Trường Thành và Hợp Tiến, Thành Hưng, khi đó có một chiếc bè luồng đang trôi trên sông. Trên mảnh đất Thạch Long, ước tính bình quân mỗi người dân phải hứng chịu hàng tạ bom, mỗi ha đất chịu khoảng 20 tấn bom, có tới 160 ngôi nhà bị san phẳng, 1 trạm xá và 1 nhà trẻ bị đánh sập, nhiều tài sản khác bị phá hủy, nhiều gia súc bị chết.

  Trên mặt trận sản xuất: Tiếp thu tinh thần chỉ đạo của huyện, Đảng ủy xã Thạch Long đã phát động phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong sản xuất. Mặc dù số hộ xã viên của hợp tác xã có hạn, với quyết tâm tiến quân vào mặt trận thuỷ lợi, Hợp tác xã chú trọng vào công việc đào đắp mương, tiếp tục kiến thiết bờ vùng bờ thửa giữ nước tại chân ruộng, mở rộng diện tích canh tác. Từ năm 1967 đến năm 1969, nhiều công trình thủy lợi được hoàn thành, đó là: Các công trình giúp xã Thạch Long chủ động hơn về việc cung cấp nước tưới, ngăn lũ bảo vệ mùa màng, giúp sản xuất nông nghiệp đi vào ổn định. Trước những khó khăn và thách thức, nhân dân Thạch Long vẫn xác định nhiệm vụ cấp bách là chuyển hướng tư tưởng và hành động vừa phát triển sản xuất, vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu, kết hợp với xây dựng lực lượng quốc phòng bảo vệ quê hương, góp phần cùng nhân dân trong tỉnh đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.

  Năm 1966, xã Thạch Long tiếp tục đón nhận các hộ gia đình ở Hoằng Hóa chuyển đến: 10 hộ dân xã Hoằng Lý (Hoằng Hóa) chuyển đến cư trú tại khu Hang Ma, Đồi Thóc, Hón Mén, đặt tên là Long Khang; 8 hộ của xã Hoằng Đại tới cấy (dặm) cư ở làng Cự Lý; 31 hộ dân của xã Hoằng Lý tới cấy cư khu Đồng Bún (bộ phận này ghép vào làng Cổ Tế - xóm Cổ Tiến); 12 hộ dân của xã Hoằng Đại san chuyển cư từ khu Hang Ma đến đồi Dinh Châu định cư, đặt tên là làng Dinh Châu.

Kết quả, Thạch Long đón nhận nhân dân các xã: Hoằng Đại, Hoằng Tiến (huyện Hoằng Hóa), Vĩnh Khang (huyện Vĩnh Lộc) đến định cư. Trong xã Thạch Long đã hình thành thêm các thôn: Sơn Hà, Đại Long, Long Khang, Hoằng Tiến. Tính đến năm 1966, dân số xã Thạch Long có 2.500 nhân khẩu.

Về văn hóa - xã hội: Kinh tế phát triển, xã Thạch Long có điều kiện đầu tư nhiều hơn vào sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế. Hưởng ứng phong trào “Tiếng hát át tiếng bom”, các tiết mục văn nghệ vẫn được vang lên trong bối cảnh đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc. Điều đó thể hiện tinh thần lạc quan, niềm tin son sắt của nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ. Các hợp tác xã xây dựng được các tủ sách, không chỉ đáp ứng nhu cầu giải trí mà còn góp phần nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân. Công tác thông tin tuyên truyền hướng vào nêu gương các điển hình, tấm gương sáng trong lao động, chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Các hủ tục như ma to, cưới lớn, chữa bệnh bằng cúng bái giảm rõ rệt so với giai đoạn trước.

Trong điều kiện đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, công tác giáo dục của xã vẫn đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Trường học có hầm, hào, học sinh được phổ biến khẩu lệnh, báo hiệu khi địch ném bom, hướng dẫn cách ẩn nấp dưới hầm, hào tránh bom. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, nhân dân xã Thạch Long đã đóng góp gỗ, tre, gạch, vôi để xây dựng trường lớp kiên cố. Do vậy, việc học tập của học sinh, giảng dạy của giáo viên được thuận lợi hơn. Chất lượng giáo dục của trường Phổ thông cấp I năm sau luôn cao hơn so với năm trước.

Công tác y tế tiếp tục được giữ vững với đội ngũ cán bộ y tế nhiệt tình, tận tâm, hết lòng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong giai đoạn này,Trạm xá xã gồm 5 cán bộ do y sĩ Lê Văn Luyện làm trạm trưởng cùng với 1 y tá, 2 nữ hộ sinh, 1 đông y, ngày đêm bám sát nhiệm vụ, tổ chức thường trực 24/24 giờ vừa bảo vệ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, vừa sẵn sàng phục vụ chiến đấu. Trong hoàn cảnh đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, lũ lụt thường xảy ra nhưng đã ngăn ngừa được dịch bệnh. Phụ cấp cho cán bộ y tế do các hợp tác xã cấp bằng thóc. Mỗi hợp tác xã có một vệ sinh viên hướng dẫn nhân dân phòng bệnh, chữa bệnh thông thường bằng y dược liệu đông y, theo dõi và nắm tình hình thực hiện phong trào “5 cắt” trong hợp tác xã.

Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng bộ, công tác an ninh - quốc phòng được quan tâm. Thường xuyên tăng cường bồi dưỡng về chính trị, kỹ năng quân sự, tác phong kỷ luật nên trình độ, khả năng chiến đấu của dân quân, du kích ngày càng cao. Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, Xã đội tiến hành rà soát thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ. Hằng năm, công tác tuyển quân được tiến hàng khẩn trương và đạt kết quả tốt.

Cấp ủy và chính quyền xã phát động nhân dân địa phương tích cực hưởng ứng phong trào thi đua “Toàn dân bảo vệ trị an”. Dân quân, du kích phối hợp chặt chẽ với công an xã xử lý kịp thời các vụ việc ảnh hưởng đến an ninh trật tự. Cấp ủy và chính quyền xã đã đẩy mạnh phong trào bảo vệ trị an, phòng chống gián điệp, biệt kích và tổ chức bảo vệ các công trình kinh tế địa phương. Công an xã chủ động tham mưu, đề xuất các phương án đảm bảo an ninh trật tự, giúp cho cấp ủy xây dựng chủ trương, đường lối phù hợp với tình hình thực tiễn.

  Tháng 10 năm 1968, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội lần thứ IX, nhiệm kỳ 1968 - 1970, Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí; Ban Thường vụ 3 đồng chí. Đồng chí Vũ Văn Mẹo được bầu làm Bí thư Đảng ủy.Đồng chí Lê Thị Lý được bầu làm Phó bí thư chủ tịch UBHC xã. Đồng chí Nguyễn Chí Tụ làm thường vụ Trực Đảng.

 

  Bị thất bại trên chiến trường miền Nam, thiệt hại nặng nề trong cuộc leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc cùng sức ép của phong trào phản đối chiến tranh của nhân dân Hoa Kỳ và sự phản đối của dư luận quốc tế, ngày 31/3/1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn buộc phải tuyên bố chấm dứt ném bom từ vĩ tuyến 18 nam cầu Bùng Nghệ An trở ra Bắc và đến ngày 01/11/1968, đế quốc Mỹ buộc phải chính thức ngừng ném bom phá hoại miền Bắc. Đồng thời chấp nhận đàm phán tại Pa-ri (Thủ đô nước Pháp) để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam. Từ đây, nhân dân Thạch Long cùng với nhân dân miền Bắc bước vào giai đoạn hòa bình, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

   Ngay sau khi đế quốc Mỹ tuyên bố ngừng ném bom không điều kiện, ngày 3 tháng 11 năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Chúng ta đã đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Song đó mới chỉ là thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt…Vì vậy, nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi” và Người khẳng định: “Trước mắt chúng ta còn nhiều gian khổ, hy sinh, nhưng sự nghiệp chống Mỹ cứu nước vĩ đại của nhân dân ta đang tiến mạnh đến ngày thắng lợi”(1).

 Thấm nhuần lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Đảng bộ xã Thạch Long đã xác định tư tưởng cho cán bộ đảng viên và nhân dân khẩn trương tranh thủ hòa bình, xốc tới, phấn khởi nhưng không rụt rè do dự, kiên quyết đẩy mạnh mọi hoạt động khôi phục và phát triển mọi mặt kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm lúc này, nhằm chuẩn bị một lực lượng vật chất và tinh thần lớn nhất, kịp thời đối phó với chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai có thể xảy ra và góp phần chi viện cho tiền tuyến.

   Năm 1969, “do thời tiết khắc nghiệt, trong huyện đã xảy ra hạn hán nghiêm trọng. Tới giữa tháng 6 mà hầu như không có một giọt nước mưa nào... Hạn hán xảy ra khắp các làng trong huyện. Hồ Đồng Ngư chỉ còn mực nước thấp. Hồ Xuân Lũng nước còn không đáng kể. Các hồ đập nhỏ khác chỉ còn lượng nước cho trâu bò uống. Cây cối, gia súc và người cũng bị thiếu nước. Do vậy tình hình sản xuất trong huyện tương đối chậm so với các huyện trong tỉnh”(2). Trước tình hình đó, Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện Thạch Thành chỉ đạo các xã trong huyện “phải tìm mọi biện pháp, tổ chức mọi lực lượng vào công tác chống hạn cấy lúa đảm bảo chỉ tiêu diện tích”.

   Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ và Nhân dân xã Thạch Long phát huy tinh thần nhiệt tình cách mạng ngày đêm ra đồng chống hạn. Với tinh thần “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”, suốt hai tháng ròng chống hạn, toàn xã đã cấy hết diện tích đúng thời vụ. Vì vậy, sản lượng lương thực vụ mùa thu nhập bình thường, đảm bảo đời sống của Nhân dân và hoàn thành nghĩa vụ đóng góp lương thực cho Nhà nước.

Hoạt động văn hóa, văn nghệ diễn ra sôi nổi góp phần động viên cổ vũ Nhân dân thi đua lao động sản xuất. Công tác y tế được quan tâm chú trọng.

Công tác giáo dục, y tế thời gian này được duy trì. Phong trào thi đua “dạy tốt - học tốt” ở cả hai cấp học, sĩ số học sinh đến trường vẫn đảm bảo.

Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, thường xuyên động viên về mặt tinh thần, quan tâm đến đời sống các gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh, gia đình có con em đi bộ đội, thanh niên xung phong hoặc người già cả neo đơn.

 Trong không khí thắng lợi của cả hai miền Nam - Bắc, nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết quy định tổng tuyển cử tự do, thống nhất Tổ quốc, ngày 20-7-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi quân và dân hai miền Nam - Bắc quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Người chỉ rõ: “Đế quốc Mỹ thất bại đã rõ ràng, nhưng chúng chưa chịu từ bỏ dã tâm bám lấy miền Nam nước ta. Quân và dân cả nước, triệu người như một, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ hy sinh gian khổ, quyết kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, quyết chiến, quyết thắng, đánh cho quân Mỹ phải rút hết sạch, đánh cho ngụy quân và ngụy quyền sụp đổ hết, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”.

 Giữa lúc cả nước đang hăng hái thi đua chống Mỹ cứu nước thì Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu từ trần (ngày 2-9-1969) để lại muôn vàn niềm tiếc thương cho toàn Đảng, toàn quân, toàn quân ta và bạn bè quốc tế, Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Đảng bộ và Nhân dân xã Thạch Long biến đau thương thành hành động cách mạng, nguyện thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người với khẩu hiệu hành động là: “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Làm việc với năng suất lao động và hiệu quả cao”...

  Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Thạch Long tập trung học tập các nghị quyết của Trung ương về triển khai 3 cuộc vận động lớn: Lao động sản xuất; nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí Minh; phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quần chúng xã viên ở nông thôn. Qua học tập, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Thạch Long càng hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Biến đau thương thành hành động cách mạng, Đảng ủy xã phát động phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các mặt công tác, lao động sản xuất, chiến đấu và học tập...

Sản xuất nông nghiệp: Theo tinh thần chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, các hợp tác xã nông nghiệp vẫn tiếp tục công tác cải tiến quản lý hợp tác xã phù hợp với yêu cầu sản xuất trong tình hình mới; chuẩn bị vật tư cần thiết cho sản xuất vụ đông xuân 1969-1970.

Các đơn vị dân quân du kích được củng cố, sắp xếp lại, tranh thủ thời gian tổ chức huấn luyện quân sự, học tập chính trị, nâng cao nhận thức về tư tưởng, lập trường cách mạng; Đoàn Thanh niên tổ chức cho đoàn viên hăng hái xung phong lên đường nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Ban công an tăng cường tuyên truyền giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng trong Nhân dân, đập tan những luận điệu xuyên tạc, gây rối trật tự trị an.

  Sau khi giặc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, cả 2 trường phổ thông cấp I và cấp II đều chuyển đến đồi Đá Bạc, xóm Cổ Lăng. Trường học được làm bằng gỗ, tranh, tre do nhân dân đóng góp xây dựng. Bàn ghế và đồ dùng dạy học rất thiếu thốn, học sinh phải học 3 ca/ngày. Nhà trường duy trì những hoạt động cơ bản là: Dạy và học, lao động sản xuất, tổ chức tốt đời sống tập thể. Những hoạt động của nhà trường nhằm đào tạo con người mới do đó thường xuyên kết hợp giáo dục với lao động sản xuất và hoạt động xã hội.

Tuy cơ sở vật chất, trang thiết bị khám chữa bệnh và thuốc men còn thiếu thốn, nhưng trạm xá có nhiều cố gắng trong việc phối hợp với các ban ngành, đoàn thể thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện phong trào vệ sinh, phòng bệnh, không để dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn. Trạm xá cũng trồng thêm vườn thuốc nam với nhiều loại cây có tác dụng chữa bệnh hiệu quả.

Đảng bộ luôn quan tâm đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền cũng như các hoạt động văn hóa quần chúng, thể dục thể thao. Đội văn nghệ xã thường xuyên luyện tập, biểu diễn nhiều tiết mục văn nghệ với nội dung ca ngợi Đảng, Bác Hồ, quê hương, đất nước và tinh thần anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất của nhân dân ta. Phong trào thể thao phát triển, nhất là ở lứa tuổi thanh niên.

  Tháng 10 năm 1970, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, Đảng bộ xã Thạch Long tiến hành Đại hội lần thứ X, nhiệm kỳ 1970 - 1972, Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí; Ban Thường vụ 3 đồng chí. Đồng chí Vũ Văn Bọc được bầu làm Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Lê Thị Lý được bầu làm Phó bí thư chủ tịch UBHC xã. Đồng chí Nguyễn chí Tụ trực Đảng.

  Thực hiện nghị quyết đại hội, Đảng ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng tiếp tục vận động Nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước với khẩu hiệu “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Miền Bắc thi đua với miền Nam”. Với phong trào “Ba đảm đang”, hội viên Hội Phụ nữ hăng hái thi đua sản xuất, chăm lo gia đình, động viên chồng con yên tâm lên đường đi chiến đấu. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày càng bước vào giai đoạn ác liệt, lực lượng nam giới trẻ khỏe lên đường đi chiến đấu, mọi nhiệm vụ ở địa phương hầu hết do chị em phụ nữ đảm nhiệm. Do đó, Đảng ủy hết sức chăm lo đến công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ là nữ để có đủ năng lực, trình độ lãnh đạo phong trào cách mạng của địa phương.

 Đoàn viên Đoàn Thanh niên hăng hái thi đua trong làm thủy lợi, tham gia văn hóa, văn nghệ, tích cực hưởng ứng phong trào “Ba sẵn sàng”, “Thanh niên 6 giỏi, Chi đoàn 10 nhất”. Hội Nông dân tổ chức cho hội viên học tập, nghiên cứu Điều lệ hợp tác xã, góp phần nâng cao ý thức làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của người nông dân. Các cụ phụ lão dù tuổi cao nhưng tích cực tham gia lao động sản xuất; động viên con cháu đi bộ đội, chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

 Thực hiện chủ trương “giao thông là mạch máu” dù khó khăn đến đâu cũng phải đảm bảo giao thông thông suốt, nhân Kỷ niệm 30 năm thành lập Chiến khu Ngọc Trạo (1941 - 1971), Huyện ủy phát động đợt thi đua làm giao thông nông thôn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và Ủy ban hành chính xã, hàng trăm lượt dân công của xã Thạch Long đóng góp ngày công lao động xã hội chủ nghĩa tham gia làm đường Phạm Văn Hinh (từ cầu Rồng đi Ngọc Trạo). Các con đường mòn dần được mở rộng, đảm bảo cho xe trâu kéo, người đi lại thuận tiện và dễ dàng.

 Hòng cứu vãn thất bại trên chiến trường miền Nam, từ cuối năm 1971 đầu năm 1972, đế quốc Mỹ lại đưa máy bay và tàu chiến, cả pháo đài bay BH52 trở lại đánh phá miền Bắc lần thứ hai với quy mô, cường độ đánh phá ác liệt hơn nhiều so với lần thứ nhất (1965 - 1968). Ở Thanh Hóa, từ ngày 26-12-1971, máy bay Mỹ bắn phá khu vực Bệnh viện K71, thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Đêm 13 tháng 4 năm 1972, giặc Mỹ huy động nhiều loại máy bay, trong đó có máy bay B52 ném bom hủy diệt nhiều nơi trong tỉnh như: Hàm Rồng, Đông Sơn, Thọ Xuân… Ở Thạch Thành, “chỉ trong vòng một thời gian ngắn từ đầu tháng 4 đến cuối tháng 12-1972, chúng đã dùng gần 600 tốp, 3000 lượt chiếc máy bay ngày đêm bắn phá trên diện rộng gồm 10 xã trong huyện làm chết hơn 40 người và nhiều gia súc, gia cầm, đốt cháy và làm hư hại hàng trăm ngôi nhà…”(1). Trước tình hình đó, cấp ủy Đảng, chính quyền xã đã chỉ đạo Nhân dân tu sửa lại hầm hào, thực hiện tốt công tác phòng không nhân dân. Trên các trục đường liên thôn, trường học, trạm xá, nhiều hầm, hố cá nhân và hào giao thông được sửa chữa hoặc đào mới; lực lượng trực chiến, dân quân, du kích được củng cố, ra sức tập luyện, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

 Công tác xây dựng Đảng: Để đủ sức lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ “vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, cấp ủy luôn coi trọng đến công tác xây dựng Đảng. Trên cơ sở nhiệm vụ cụ thể, các đảng viên tiếp tục phấn đấu xây dựng Đảng bộ theo cuộc vận động “Ba xây, ba chống”, “Bốn tốt” nhằm nâng cao chất lượng đảng viên, kiểm điểm những đảng viên không đủ tư cách. Thông qua các kỳ Đại hội, Đảng ủy và các chi bộ tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm công tác phát triển Đảng và đề ra biện pháp khắc phục trong nhiệm kỳ tiếp theo.

Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ủy xã tập trung củng cố và xây dựng Đảng, kết hợp chặt chẽ cuộc vận động “Nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh” theo nội dung Nghị quyết số 195-NQ/TW ngày 06/3/1970 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 192-CT/TW ngày 26/10/1971 của Ban Bí thư Trung ương “Về việc đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng trong cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh” với việc chỉ đạo phát triển kinh tế, chi viện cho chiến trường. Quán triệt Chỉ thị 192, Nghị quyết 195, Đảng ủy tập trung chỉ đạo đấu tranh, phê bình những hiện tượng quan liêu, hách dịch, mệnh lệnh, xa rời quần chúng. Đảng ủy yêu cầu các cán bộ, đảng viên phải giữ chặt mối liên hệ với nhân dân. Qua đợt sinh hoạt chính trị, cán bộ, đảng viên đã tự liên hệ với bản thân, kiểm điểm những việc đã làm được, rút ra điểm còn hạn chế để có phương hướng khắc phục, phấn đấu. Việc triển khai có hiệu quả các đợt sinh hoạt chính trị, học tập nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng đã góp phần làm cho đảng viên vững vàng ý chí, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đảng ủy cũng kịp thời đấu tranh, uốn nắn những đảng viên biểu hiện hoài nghi, dao động, thoái thác nhiệm vụ được giao. Công tác phê bình và tự phê bình được tiến hành thường xuyên, liên tục xoay quanh nội dung “4 nghĩa vụ, 5 dứt điểm”. Trong xây dựng Đảng, công tác phát triển Đảng được chú trọng, coi đó là tiêu chí quan trọng đánh giá kết quả lãnh đạo của các chi bộ trực thuộc.

Để nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng địa phương, Đảng ủy cử một số cán bộ chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể đi học tập các lớp sơ cấp lý luận chính trị, cách thức điều hành, quản lý hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh và huyện. Bên cạnh những thành tựu, công tác xây dựng Đảng cũng có những hạn chế nhất định. Một số cán bộ, đảng viên có tư tưởng ngại khó, ngại khổ, sợ hy sinh; ý thức tổ chức kỷ luật kém, thoái thác trách nhiệm, chấp hành không nghiêm nghị quyết của cấp trên và của cấp ủy. Hiện tượng tham ô, hủ hóa, tư lợi xảy ra gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức Đảng. Qua đó, một số Đảng viên lười công tác, có tư tưởng lệch lạc, muốn hưởng thụ, sống thu vén cho cá nhân và gia đình đều bị kiểm điểm nghiêm khắc.

Bên cạnh xây dựng Đảng, Đảng ủy đặc biệt coi trọng công tác xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền cơ sở. Trong giai đoạn này, Đảng ủy lãnh đạo tổ chức thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp vào các năm 1967, 1969 và 1971.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng thường xuyên vận động đồng bào giáo dân và nhân dân về chính sách đại đoàn kết dân tộc, yêu nước, tin theo đường lối của Đảng. Mặt trận Tổ quốc tiếp tục vận động nhân dân hăng hái, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước với khẩu hiệu “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Miền Bắc thi đua với miền Nam”. Thông qua các phong trào “Ba sẵn sàng”, “Thanh niên 6 giỏi, Chi đoàn 10 nhất”, đoàn viên thanh niên hăng hái thi đua giành kết quả cao nhất trong làm thủy lợi, tham gia văn hóa, văn nghệ và sẵn sàng tình nguyện nhập ngũ. Hội Nông dân hướng dẫn và tổ chức hội viên học tập, nghiên cứu Điều lệ hợp tác xã, góp phần nâng cao ý thức làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của người nông dân.

 Hội Phụ nữ không chỉ hăng hái trong sản xuất, chăm lo gia đình mà còn tích cực vận động chồng, con lên đường nhập ngũ, góp phần hoàn thành nhiệm vụ giao quân của địa phương. Cuộc kháng chiến chống Mỹ càng vào giai đoạn ác liệt, lực lượng sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu tại xã hầu hết là chị em phụ nữ. Do đó, Đảng ủy hết sức chăm lo đến công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ là nữ để có đủ năng lực, trình độ lãnh đạo phong trào ở xã trong mọi hoàn cảnh. Các cụ phụ lão dù tuổi cao nhưng chí vẫn bền, tham gia lao động sản xuất; động viên con cháu đi bộ đội, chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

 Trong những năm 1965 - 1972, miền Bắc chia lửa với tiền tuyến miền Nam, cán bộ, đảng viên và Nhân dân xã Thạch Long vừa sản xuất, vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, phong trào hợp tác hóa của xã được củng cố vững chắc; Nhân dân tay cày, tay súng hăng hái thi đua sản xuất, hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đối với Nhà nước, góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

  2.Đảng bộ lãnh đạo khôi phục và phát triển kinh tế, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1973 - 1975)

  Tháng 10 năm 1972, Đảng bộ xã Thạch Long tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ XI, nhiệm kỳ 1972 - 1974. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí; Ban Thường vụv 3 đồng chí. Đồng chí Vũ Văn Bọc được bầu làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Lê Thị Lý được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC xã Đồng chí Nguyễn chí Tụ trực Đảng..

 Sau trận tập kích chiến lược bằng máy bay B52 trong 12 ngày đêm vào cuối tháng 12 năm 1972 trên bầu trời Thủ đô Hà Nội bị thất bại thảm hại, 81 máy bay Mỹ bị quân và dân ta bắn rơi, trong đó có 34 pháo đài bay B52, ngày 27 tháng 1 năm 1973, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pa-ri về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, rút hết quân Mỹ về nước, thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh” nhằm tránh những tổn thất cay đắng lâu dài của cường quốc “thế giới tự do”. Từ thời điểm lịch sử này, Đảng bộ và Nhân dân Thạch Long phát huy chủ nghĩa anh hung cách mạng trong kháng chiến thành quyết tâm to lớn bước vào thời kỳ mới: Thực hiện hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội, đẩy mạnh tăng năng suất lao động, thực hành tiết kiệm, củng cố an ninh quốc phòng, đảm bảo an toàn và nâng cao đời sống nhân dân, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, góp phần cùng quân và dân cả nước thực hiện mục tiêu thứ hai là “Đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

  Tháng 7 năm 1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) ra Nghị quyết “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam giai đoạn mới”. Nghị quyết chỉ rõ: Trong điều kiện mới, miền Bắc ra sức khôi phục và phát triển kinh tế quốc dân, làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng miền Nam. Trong khi đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội và củng cố quốc phòng, miền Bắc phải tiếp tục làm nhiệm vụ hậu phương lớn đối với miền Nam trên các mặt đấu tranh chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao.

Bước vào giai đoạn mới, Đảng ủy vẫn tiếp tục xác định cần tập trung mọi nguồn lực cho phát triển nông nghiệp. Cấp ủy tăng cường sự chỉ đạo đối với hoạt động của các hợp tác xã. Những người trong Ban Quản trị chưa làm tròn vai trò và trách nhiệm của mình, bỏ bê công việc, đều bị nghiêm khắc kiểm điểm. Công tác giáo dục tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa cho xã viên được đẩy mạnh. Khẩu hiệu “Xuống đội, lội đồng, vào chuồng, thông kỹ thuật, bật điển hình” được tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân. Các giống lúa Nông Nghiệp 8, Nông Nghiệp 22, Nông Nghiệp 23, X10, Bao Thai trắng, Bao Thai lùn vẫn được nhân dân địa phương sử dụng trong canh tác. Năng suất lúa vẫn giữ ổn định so với những năm trước, bình quân đạt 170 kg/sào. Các gia đình còn chú trọng đến nuôi lợn, gia cầm (gà, vịt, ngan). Không chỉ cung cấp thịt cho đời sống mà tăng gia sản xuất trong chăn nuôi còn giúp các gia đình hoàn thành nghĩa vụ thực phẩm đối với Nhà nước.

Thực hiện phương châm “hợp tác hóa phải đi đôi với thủy lợi hóa”, cấp ủy và chính quyền xã Thạch Long luôn quan tâm tới việc xây dựng, tu bổ các công trình thủy nông, kiến thiết ruộng đồng. Nhân dân trong xã, đi đầu là đoàn viên, thanh niên đóng góp hàng vạn ngày công, hàng trăm nghìn đồng để củng cố toàn bộ hệ thống kênh mương, bai, đập. Các hợp tác xã thường xuyên tu sửa nhà kho, sân phơi, mua sắm nông cụ, góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất.

Hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán có nhiều nỗ lực trong hoạt động, góp phần giáo dục, củng cố tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của xã viên. Hợp tác xã tín dụng tạo thuận lợi cho xã viên vay vốn mua sắm nông cụ, làm chuồng trại, phát triển kinh tế gia đình. Ngược lại, nhân dân cũng tích cực gửi tiền tiết kiệm, giúp số vốn của hợp tác xã không ngừng tăng lên. Ban Chủ nhiệm hợp tác xã mua bán chủ động nhận hàng từ Phòng Thương nghiệp huyện, phân phối theo định mức, đáp ứng nhu cầu cơ bản của nhân dân.

Các hoạt động văn hóa thông tin và thể dục thể thao của xã diễn ra sôi nổi, góp phần làm cho đời sống tinh thần của nhân dân thêm phong phú. Công tác thông tin tuyên truyền, nhất là tình hình chiến sự ở miền Nam được thông báo nhanh chóng và kịp thời đến nhân dân. Xã định kỳ tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, trong đó đối tượng hướng đến chủ yếu là bộ phận thanh, thiếu niên.

Hoạt động giáo dục được Đảng ủy quan tâm và có bước phát triển mới. Cấp ủy và chính quyền xã quan tâm lãnh đạo đến sửa sang, tu bổ cơ sở vật chất của các trường học. Dưới sự vận động của Đảng bộ và chính quyền xã, nhân dân tự nguyện đóng góp vật liệu, ngày công để sửa chữa trường, lớp khắc phục được hiện tượng dột mỗi khi trời mưa, giúp thầy và trò an tâm hơn trong dạy và học. Các thầy cô không chỉ dạy về kiến thức mà còn chú trọng giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh về đạo đức mới xã hội chủ nghĩa. Nhờ vậy, các em không chỉ chăm chỉ tham gia học tập mà còn tích cực lao động với tinh thần “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ” để giúp đỡ gia đình, đồng thời tham gia các hoạt động văn nghệ, bắt sâu, diệt chuột. Các phong trào “Đôi bạn học tập”, “Làm nghìn việc tốt” cũng được các em thiếu niên, nhi đồng hăng hái tham gia. Các lớp học Bình dân học vụ, bổ túc văn hóa tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh.

  Tháng 10 năm 1974, Đảng bộ xã Thạch Long tiến hành Đại hội lần thứ XII, nhiệm kỳ 1974 - 1975. Đại hội tập trung thảo luận Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XI, trên cơ sở đó thống nhất phương hướng, nhiệm vụ trong những năm 1974 - 1975 là: Củng cố các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán; tập trung chi viện sức người, sức của cho miền Nam đánh cho “Ngụy nhào”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kỳ của dân tộc.

 Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XII gồm 7 đồng chí; Ban Thường vụ 3 đồng chí. Đồng chí Vũ Văn Bọc được bầu giữ chức Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Đức Đài - Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC xã. Trực Đảng đồng chí Vũ Ngọc Vượng.

 Bước sang năm 1974, thực hiện nghị quyết 22 của Ban Chấp hành trung ương Đảng về khôi phục kinh tế trong 2 năm (1974 - 1975), Đảng bộ xã Thạch Long đã tập trung lãnh đạo nhân dân trong xã đầu tư khôi phục sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm nhằm nâng cao đời sống nhân dân và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu chi viện cho chiến trường miền Nam. Thực hiện Chỉ thị 208 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tổ chức lại sản xuất, đưa sản xuất nông nghiệp đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, Huyện ủy Thạch Thành mở chiến dịch kiến thiết lại đồng ruộng nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng manh mún, độc canh, quảng canh trong sản xuất nông nghiệp, chuyển mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, chuyên canh cây trồng, vật nuôi có năng suất, sản lượng, hiệu quả kinh tế cao; tiến hành xây dựng quy hoạch giao thông thủy lợi, quy hoạch dân cư cho từng xã.

Đồng thời với việc lãnh đạo xây dựng phát triển kinh tế, Đảng ủy chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển văn hóa - xã hội:

Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có những bước chuyển mạnh. Cán bộ Trạm xá xã tích cực hướng dẫn nhân dân ăn ở hợp vệ sinh, xây dựng giếng nước, nhà tiêu... Trạm xá không chỉ chữa bệnh bằng thuốc tây mà còn trồng một số cây thuốc nam làm dược liệu. Trong 3 năm (1973 - 1975), bình quân mỗi năm có hàng trăm lượt người được khám, điều trị ban đầu tại Trạm xá, từ đó sức khỏe của nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, hiện tượng cúng bái khi có người ốm, tập quán nuôi nhốt gia súc dưới nhà sàn của một số hộ dân ở làng cự lý vẫn còn.

Xác định giữ vững quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, hằng năm cấp ủy chỉ đạo chính quyền xã củng cố và kiện toàn dân quân, du kích; đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Với tinh thần sẵn sàng chiến đấu, trong suốt những năm 1973 - 1975, công tác huấn luyện dân quân vẫn được duy trì đều đặn. Nội dung huấn luyện trong giai đoạn này được thay đổi, các phương án tác chiến gắn với vị trí, địa hình của địa phương. Mỗi chiến sỹ dân quân luôn giữ vững ý chí chiến đấu, sử dụng thành thạo các loại vũ khí được trang bị và nắm được một số chiến thuật chiến đấu cơ bản. Trong công tác quân sự địa phương, Đảng ủy đặt ra nhiệm vụ trọng tâm là “dồn sức chi viện cho miền Nam, cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu”. Công tác hậu phương quân đội được thực hiện tốt. Ngoài tổ chức lễ tiễn chân trang trọng do Đảng ủy và Ủy ban hành chính tổ chức, các tân binh được Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ tặng những món quà kỷ niệm thân thương (khăn mùi xoa, lược…), từ đó có thêm động lực lên đường chiến đấu với quân thù. Với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”; “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”; “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, từ năm 1973 đến năm 1975, xã Thạch Long hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân được giao.

Nhận thức sâu sắc vấn đề “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, Đảng ủy xã thường xuyên thực hiện công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Các chỉ thị, nghị quyết được quán triệt tới đảng viên với nội dung chủ yếu là: Chính trị tư tưởng của Đảng bộ phải thống nhất, đảng viên phải tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được phân công. Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quy định của địa phương. Chống ăn cắp tài sản của tập thể, chống làm ăn phi pháp; tăng cường quản lý lao động, thị trường, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Sinh hoạt Đảng đều, đảm bảo chất lượng; các đảng viên phải gần gũi, gương mẫu trước quần chúng; đưa quần chúng ưu tú vào Đảng và loại bỏ những đảng viên không đủ phẩm chất đạo đức chính trị, tư cách ra khỏi Đảng.

Việc kiểm tra, xử lý cán bộ đảng viên vi phạm kỷ luật được tiến hành thường xuyên, kịp thời nhằm làm trong sạch nội bộ Đảng. Đảng viên ngày càng có ý thức tiên phong gương mẫu, tinh thần trách nhiệm, ý thức rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Bên cạnh thành tích, công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ xã cũng còn khuyết điểm, hạn chế. Một số đồng chí chưa tích cực tham gia sinh hoạt, công tác; trường hợp còn vi phạm nghị quyết; không muốn cho con em đi bộ đội, thậm chí có tư tưởng thu vén cho gia đình.

Trong giai đoạn này, Đảng ủy tập trung chỉ đạo thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp vào năm 1975. Trên 98% cử tri trong xã cầm lá phiếu để lựa chọn ra các đại biểu đại diện cho quyền lợi và lợi ích của mình. Sau khi được kiện toàn, Hội đồng nhân dân xã bầu ra Ủy ban hành chính xã, trong đó đồng chí Nguyễn Đức Đài được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.

  Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng chú ý bám sát nhiệm vụ chính trị của cấp ủy Đảng, hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. Đoàn Thanh niên liên tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Ba sẵn sàng” từ đó giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức tư tưởng và hành động cách mạng cho đoàn viên Đoàn Thanh niên. Phát huy tinh thần yêu nước, nêu cao khẩu hiệu “Miền Nam gọi, miền Bắc trả lời”, phong trào tòng quân tại địa phương diễn ra sôi nổi với những đợt khám sức khỏe tuyển quân cho thanh niên từ 18 đến 35 tuổi. Để đảm bảo về số lượng và chất lượng tuyển quân, Đảng ủy chỉ đạo Ủy ban hành chính xã tiến hành rà soát các tiêu chuẩn chính trị, hồ sơ của những người tham gia. Cùng với giáo dục, động viên đoàn viên, thanh niên làm tròn nhiệm vụ tuyển quân, xây dựng lực lượng quân sự địa phương, Đảng bộ tiến hành giáo dục đoàn viên, thanh niên phát huy vai trò nòng cốt, xung kích trong lao động sản xuất.

Hội Phụ nữ đẩy mạnh phong trào “Ba đảm đang”, giáo dục tinh thần nhiệt tình cách mạng của chị em. Hội Phụ lão gương mẫu, tích cực động viên con cháu nghiêm chỉnh chấp hành mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Nhiều hội viên cao tuổi luôn có mặt trong các cuộc vận động cách mạng của địa phương, là tấm gương sáng động viên, khích lệ thế hệ trẻ hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước.

Ngày 30/4/1975, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, chính quyền Sài Gòn sụp đổ. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng. Nhìn lại chặng đường 21 năm kháng chiến trường kỳ chống Mỹ cứu nước (1954 -1975), cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Thạch Long đã vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ và đạt được thành tựu quan trọng. Từ trong thực tiễn cách mạng, tổ chức Đảng ở xã Thạch Long không ngừng trưởng thành, lớn mạnh. Năm 1959, Đảng bộ xã Thạch Long được chuẩn y từ chi bộ thành Đảng Bộ, là bước ngoặt quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng tại địa phương.

Từ khi các hợp tác xã nông nghiệp ra đời, nhân dân xã Thạch Long từng bước đưa sản xuất lên quy mô lớn. Hệ thống thủy lợi, đường giao thông nội đồng từng buớc được nâng cấp, mở rộng để phục vụ sản xuất. Tình trạng thiếu đói cơ bản bị đẩy lùi, cuộc sống của nhân dân được cải thiện một bước. Lực lượng dân quân, du kích xã Thạch Long hăng say luyện tập về quân sự, bồi dưỡng về chính trị, sẵn sàng giúp nhân dân sản xuất và đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng bộ, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế khởi sắc, từ đó góp phần xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.

Với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, Thạch Long luôn hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân, lương thực, thực phẩm chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xã Thạch Long có 950 thanh niên lên đường đi bộ đội, có 459 người tham gia dân công hỏa tuyến. Những người con của xã anh dũng chiến đấu trên chiến trường, nhiều người hy sinh hoặc bị thương, trong đó có 104 người được công nhận là liệt sỹ, 75 người được công nhận là thương binh. Bên cạnh đó, nhân dân xã Thạch Long đóng góp hàng trăm tấn lương thực, thực phầm gửi ra chiến trường, giúp bộ đội ăn no, mặc ấm. Toàn xã có 11 mẹ được phong tặng, truy tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam anh hùng; 232 người được tặng Huân - Huy chương các hạng. Với những thành tích xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 8 tháng 11 năm 2000, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Quyết định phong tặng Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Thạch Long danh hiệu cao quý: Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Những thành tựu đạt được trở thành nguồn tài sản to lớn để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Thạch Long bước vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

 

 

 

 

 


Chương IV

ĐẢNG BỘ XÃ THẠCH LONG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÙNG CẢ NƯỚC TIẾN HÀNH SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975 - 1985)

 

I.TÌNH HÌNH THẠCH LONG SAU NGÀY ĐẤT NƯỚC HÒA BÌNH, THỐNG NHẤT

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử trở thành cột mốc quan trọng kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ đây, nhân dân cả nước bước vào thời kỳ độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Hòa trong không khí vui mừng của ngày hội non sông thống nhất, cùng với đồng bào, chiến sỹ cả nước, Đảng bộ và nhân dân Thạch Long quyết tâm phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ chính trị của địa phương, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương cũng như của Tỉnh ủy Thanh Hóa và Huyện ủy Thạch Thành, cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương tích cực sản xuất, khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội.

Thắng lợi của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XII đã cổ vũ, động viên tinh thần lao động sản xuất của nhân dân trong xã. Lực lượng lao động ở các hợp tác xã cũng được bổ sung do có thêm các quân nhân hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, trở về xây dựng quê hương. Vượt lên những khó khăn về thời tiết, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Thạch Long ra sức thi đua lao động sản xuất và đạt được những kết quả khả quan.

Cùng với cả nước bước vào thực hiện các nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng bộ và nhân dân Thạch Long có những thuận lợi cơ bản là đất nước hòa bình thống nhất, Đảng bộ xã lãnh đạo với đường lối chính trị đúng đắn, nhân dân phấn khởi và làm chủ quê hương. Qua quá trình hoạt động cách mạng, đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng trưởng thành, là hạt nhân tiên phong trong phong trào phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, xã vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn: Cơ cấu kinh tế không cân đối, dựa trên sản xuất nông nghiệp lạc hậu, mang tính tự cung tự cấp là chính. Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, trình độ tổ chức, quản lý của đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế.

Trước tình hình khó khăn trên, nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ xã Thạch Long lúc này là: Nhanh chóng hàn gắn và khắc phục vết thương chiến tranh, kiện toàn bộ máy lãnh đạo của Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng; phát động các phong trào thi đua tiến quân vào mặt trận sản xuất, khai hoang phục hóa diện tích bị bỏ hoang trong chiến tranh; đẩy mạnh công tác giao thông, thủy lợi, cải tiến quản lý trong các hợp tác xã, nâng cao đời sống Nhân dân.

 Bước vào thời kỳ mới, Đảng bộ và Nhân dân xã Thạch Long phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, truyền thống đoàn kết, chung sức đồng lòng phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

 Hòa trong không khí thi đua sôi nổi của Nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tháng 10 năm 1975, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội lần thứ XIII, nhiệm kỳ 1975 - 1976. Đại hội đánh giá, kiểm điểm các mặt công tác của nhiệm kỳ 1974 - 1975 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới, trong đó chú trọng triển khai học tập và thực hiện tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý trong nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

 Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa mới gồm 7 đồng chí. Ban Thường vụ Đảng ủy 3 đồng chí. Đồng chí Vũ Văn Bọc được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Đức Đài - Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban hành chính; Trực Đảng đồng chí Vũ Ngọc Vượng.

Quán triệt nội dung, tinh thần Nghị quyết của Tỉnh ủy Thanh Hóa “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế 2 năm (1975 - 1976)”, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thạch Thành xác định phương hướng sản xuất chung là “Tập trung sức phát triển nghề rừng, cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc lớn trên cơ sở phát triển mạnh mẽ, toàn diện và vững chắc về lương thực”, Đảng bộ xã Thạch Long chủ trương đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, coi đó là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng bộ và Nhân dân. Trong khí thế của chiến dịch “55 ngày tiến quân vào thời kỳ mới” do Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ VIII (tháng 5-1975) phát động với trọng tâm là đẩy mạnh công tác thủy nông, hoàn thành nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước; tập trung sản xuất vụ mùa thắng lợi, phát triển chăn nuôi, củng cố các hợp tác xã nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh các mặt hoạt động văn hóa - xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chiến dịch “55 ngày tiến vào thời kỳ mới” đã khơi dậy và đem lại hiệu quả thiết thực trong phong trào thi đua lao động xã hội chủ nghĩa ở địa phương. Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy Thanh Hóa “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế 2 năm (1975 - 1976)”, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thạch Thành xác định phương hướng sản xuất chung là “Tập trung sức phát triển nghề rừng, cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc lớn trên cơ sở phát triển mạnh mẽ, toàn diện và vững chắc về lương thực”, Đảng bộ Thạch Long chủ trương đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, coi đó là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng bộ và nhân dân. Trong khí thế của chiến dịch “55 ngày tiến quân vào thời kỳ mới” của Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ VIII, Đảng bộ phát động cả xã biến thành công trường.

Đến ngày 30-7-1975, các hợp tác xã nông nghiệp của xã Thạch Long đã cấy hết diện tích lúa vụ mùa. Song hai trận lụt và một cơn bão lớn trong tháng 9 - 1975 ập tới đã để lại hậu quả hết sức nặng nề cho Nhân dân huyện Thạch Thành, trong đó xã Thạch Long. Mặc dù trận lụt này đã để lại hậu quả nặng nề cho sản xuất và đời sống, song Đảng bộ và Nhân dân trong xã quyết tâm vượt qua thử thách, nhanh chóng khắc phục hậu quả bão lụt, tạo nên những phong trào cách mạng của quần chúng nhằm đưa hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội nhanh chóng được phục hồi và phát triển.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, hợp tác xã nông nghiệp tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý trong nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Xã viên hợp tác xã hăng hái ra quân khai hoang phục hóa, làm thủy lợi; đưa giống lúa có năng suất cao vào sản xuất, phấn đấu giành vụ mùa thắng lợi toàn diện cả về diện tích, năng suất và sản lượng, phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm.

Sau trận bão lụt, Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện phát động phong trào làm thủy lợi trong toàn huyện. Đảng ủy xã Thạch Long đã huy động lực lượng tham gia đào đắp hoàn thành hai công trình thủy lợi lớn của huyện là Yên Tôn và Đồng Múc và bốn công trình thủy lợi nhỏ khác. Đồng thời, Đảng bộ đã chỉ đạo chặt chẽ phong trào hoàn chỉnh thủy nông. Do kết quả của phong trào làm thủy lợi mà việc tưới tiêu chủ động, tạo ra khả năng cải tạo và mở rộng diện tích trồng lúa.

 Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, hoạt động văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh đều có bước chuyển biến tích cực.

 Những kết quả giành được trong năm 1975 và những tháng đầu năm 1976 là cơ sở cho Đảng bộ tổng kết rút kinh nghiệm trong công tác tổ chức lãnh đạo Nhân dân thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ II (1976 - 1980).

II.ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC 5 NĂM LẦN THỨ HAI (1976 - 1980)

  Năm 1976 - năm có nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước: Tiến hành bầu cử Quốc hội khóa VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng. Ngày 25/4/1976, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI - Quốc hội chung của cả nước được tiến hành. Trong không khí ngày hội lớn của dân tộc, 99% cử tri xã Thạch Long cùng cử tri cả nước nô nức đi thực hiện nghĩa vụ công dân của mình, lựa chọn những người xứng đáng bầu vào Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI thắng lợi thể hiện được ý thức làm chủ và niềm tin của Nhân dân vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngày 3-7-1976, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI đã quyết định đổi tên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quy định Quốc kỳ nền đỏ sao vàng, quy định Quốc huy và Quốc ca là bài Tiến quân ca, quy định Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam và chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đây Ủy ban hành chính các cấp đổi thành Ủy ban nhân dân.

 Sau cuộc Tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội khóa VI, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, Đảng ủy xã Thạch Long đã đề ra chủ trương, giải pháp thực hiện Chỉ thị số 208 CT- TW tháng 9-1974 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết số 61 của Hội đồng Chính phủ về cuộc vận động tổ chức lại sản xuất và cải tiến một bước quản lý nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phát động phong trào thi đua lao động sản xuất lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng. Gắn với việc thực hiện Chỉ thị 208 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Huyện ủy đã chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết 228 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 209 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chống tiêu cực trong các hợp tác xã, các ngành sản xuất và dịch vụ. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng ủy xã Thạch Long đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong xã học tập quán triệt Nghị quyết 228 và Chỉ thị 209. Qua việc học tập, cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhận thức rõ vai trò làm chủ của người lao động, đấu tranh bài trừ và ngăn chặn tệ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, chống tham ô, lãng phí. Do vậy, các chế độ quản lý tài chính, vật tư của tập thể được thực hiện tốt hơn trước.

Trong khí thế tưng bừng của đất nước hòa bình, thống nhất, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch hành, Tháng 10 Năm 1976, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội lần thứ XIV, nhiệm kỳ 1976 - 1977. Đại hội đánh giá, kiểm điểm các mặt công tác của nhiệm kỳ 1974 - 1976 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới, trong đó chú trọng triển khai học tập và thực hiện tổ chức lại sản xuất trên cơ sở tình hình thực tế của địa phương.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa mới gồm 9 đồng chí, Ban Chấp hành bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ. Đồng chí Vũ Văn Bọc tiếp tục được bầu làm Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Nguyễn Đức Đài được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã; đồng chí Vũ Ngọc Vượng Trực Đảng ủy.

Sau đại hội, Đảng ủy xã tập trung lãnh đạo thực hiện đưa HTX quy mô xóm lên quy mô HTX liên xóm. Để tập trung lực lượng canh tác khai thác triệt để cánh đồng mới rộng rãi, phì nhiêu, UBND xã quyết định sát nhập 3 HTX nông nghiệp ở 3 làng bao quanh cánh Đồng lỳ thành một HTX cấp liên thôn. Các HTX Sơn Hà, Cổ Lăng và Hoàng Tiến đã được sát nhập thành một HTX nông nghiệp lấy tên là Sơn Lăng Tiến. Như vậy số diện tích canh tác đã được chia về các đội gần nơi cư trú để tiện canh tiện cư và thuận tiện cho điều hành của HTX. Với sức mạnh của HTX có quy mô lớn, toàn bộ diện tích cánh Đồng Lỳ rộng lớn đã nhanh chóng trở thành vựa lúa của Thạch Long.

Năm 1977, theo nguyện vọng của nhân dân trong làng Cự lý muốn chuyển về xã Thạch Long để sinh hoạt được thuận lợi, con em đến trường học được gần và thuận tiện. UBND tỉnh đồng ý chuyển làng Cự lý thuộc xã Thạch đồng về xã Thạch Long, cũng là năm toàn xã Thạch Long thành lập một HTX hợp nhất. Năm 1977, làng Cự Lý chuyển về xã Thạch Long, cũng là năm toàn xã Thạch Long thành lập một HTX hợp nhất. Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp cấp liên xóm đạt kết quả, hai năm liên tục được mùa, phong trào hợp tác hóa đang thuận, Đảng ủy quyết định đưa quy mô hợp tác xã lên toàn xã. Để chuẩn bị cho việc hợp nhất HTX, các hợp tác xã trong xã tiến hành kiểm kê ruộng đất, lao động, trâu bò, nông cụ, tài chính và các tài sản khác để đưa vào hợp tác xã toàn xã. Sau một thời gian làm công tác chuẩn bị, Đại hội đại biểu xã viên toàn xã được triệu tập. Hợp tác xã nông nghiệp toàn xã Thạch Long chính thức được thành lập trên cơ sở hợp nhất các hợp tác xã quy mô thôn, liên thôn. Đại hội HTX toàn xã khóa I (1977 - 1979 ) đã bầu ra các thành viên trong Ban quản trị hợp tác xã. Ông Phạm Văn Thạo là Chủ nhiệm; hai Phó Chủ nhiệm là ông Vũ Ngọc Uyên, ông Nguyễn Văn Phúc; ông Vũ Văn Bọc làm Trưởng ban kiểm soát, bà Trần Thị Hân làm kế toán.

Sau khi kiện toàn bộ máy quản lý, hợp tác xã nhanh chóng lập kế hoạch sản xuất cho phù hợp với tình hình địa phương. Tỉnh điều động tăng cường cho huyện một số cán bộ kỹ thuật (trồng trọt, chăn nuôi) trung cấp và đại học, tiến hành tập huấn cho các hợp tác xã về ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong lai tạo giống, ngâm ủ xử lý hạt giống, gieo mạ trên nền đất cứng, gieo thẳng, lai tạo vật nuôi. Để khắc phục tình trạng bão lũ, chính quyền xã huy động nhân dân tích cực làm công tác thủy lợi nhằm phục vụ tốt cho việc gieo mạ, chăm sóc lúa. Các bờ ruộng, bờ đồng được khai hoang phục hóa, trồng khoai sọ, trồng sắn, rong riềng.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành về chính sách quy hoạch đất đai xã Thạch Long tiến hành khoanh vùng cây, con, vùng kinh tế phụ, vùng kinh tế tập thể. Đến năm 1977, xã hoàn thành tổ chức lại sản xuất. Tháng 4/1978, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Nghị quyết chuyên đề nhằm củng cố các hợp tác xã yếu kém, nâng loại trung bình lên khá, phát huy các hợp tác xã tiên tiến. Thực hiện Nghị quyết 66 của Hội đồng Chính phủ “Về tổ chức quy mô hợp tác xã và củng cố hợp tác xã nông nghiệp”, Đảng bộ tiến hành học tập, sau đó quán triệt tới tất cả đảng viên và xã viên hợp tác xã. Mỗi hợp tác xã chia thành nhiều đội sản xuất và một số đội chuyên: Đội kỹ thuật làm nhiệm vụ xác định cơ cấu cây trồng cho từng cánh đồng, mùa vụ; đội giống áp dụng khoa học kỹ thuật vào việc làm mạ, chống rét, thực hiện gieo cấy theo hàng với mật độ vừa phải; đội làm đất đảm bảo cày bừa kịp thời vụ; đội thủy nông điều hòa tưới tiêu hợp lý. Hầu hết các đội sản xuất và đội chuyên đều do đoàn viên, thanh niên và dân quân trong xã phụ trách. Nhiều cán bộ, chiến sỹ dân quân trở thành kỹ thuật viên trên đồng ruộng, đảm nhiệm các khu ruộng thí điểm gieo, cấy các giống lúa mới, hướng dẫn bà con xã viên cấy thẳng hàng. Nhờ những biện pháp chỉ đạo sản xuất kịp thời và tinh thần lao động cần cù của xã viên nên lương thực bình quân đầu người của xã đạt 204 kg/người.

Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy về việc đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, Đảng bộ Thạch Long khuyến khích phát triển chăn nuôi cả ở khu vực tập thể và hộ gia đình, tiến hành quy hoạch xây dựng cơ sở chăn nuôi bò, lợn. Tuy nhiên trong các năm xảy ra dịch bệnh, nguồn thức ăn không đủ nên tổng đàn gia súc, gia cầm của xã đều giảm.

Kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp với phát triển lâm nghiệp, nghề rừng ngày càng được mở rộng trong các hợp tác xã. Sản lượng khai thác gỗ tròn, củi, nứa, nguyên liệu giấy hằng năm liên tục đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch.

Các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán đã phối hợp chặt chẽ với nhau phục vụ sản xuất, đời sống và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Hợp tác xã mua bán Thạch Long có nhiều nỗ lực trong việc phối hợp với các cấp, các ngành liên quan giải quyết tốt khâu phân phối, lưu thông, đảm bảo nhu cầu cơ bản đời sống và sản xuất của nhân dân.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành về chính sách quy hoạch đất đai xã Thạch Long tiến hành khoanh vùng cây, con, vùng kinh tế phụ, vùng kinh tế tập thể. Đến năm 1977, xã hoàn thành tổ chức lại sản xuất. Tháng 4/1978, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Nghị quyết chuyên đề nhằm củng cố các hợp tác xã yếu kém, nâng loại trung bình lên khá, phát huy các hợp tác xã tiên tiến. Thực hiện Nghị quyết 66 của Hội đồng Chính phủ “Về tổ chức quy mô hợp tác xã và củng cố hợp tác xã nông nghiệp”, Đảng bộ tiến hành học tập, sau đó quán triệt tới tất cả đảng viên và xã viên hợp tác xã.

Mỗi hợp tác xã chia thành nhiều đội sản xuất và một số đội chuyên: Đội kỹ thuật làm nhiệm vụ xác định cơ cấu cây trồng cho từng cánh đồng, mùa vụ; đội giống áp dụng khoa học kỹ thuật vào việc làm mạ, chống rét, thực hiện gieo cấy theo hàng với mật độ vừa phải; đội làm đất đảm bảo cày bừa kịp thời vụ; đội thủy nông điều hòa tưới tiêu hợp lý. Hầu hết các đội sản xuất và đội chuyên đều do đoàn viên, thanh niên và dân quân trong xã phụ trách. Nhiều cán bộ, chiến sỹ dân quân trở thành kỹ thuật viên trên đồng ruộng, đảm nhiệm các khu ruộng thí điểm gieo, cấy các giống lúa mới, hướng dẫn bà con xã viên cấy thẳng hàng. Nhờ những biện pháp chỉ đạo sản xuất kịp thời và tinh thần lao động cần cù của xã viên nên lương thực bình quân đầu người của xã đạt 204 kg/người.

Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy về việc đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, Đảng bộ Thạch Long khuyến khích phát triển chăn nuôi cả ở khu vực tập thể và hộ gia đình, tiến hành quy hoạch xây dựng cơ sở chăn nuôi bò, lợn. Tuy nhiên trong các năm xảy ra dịch bệnh, nguồn thức ăn không đủ nên tổng đàn gia súc, gia cầm của xã đều giảm.

Kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp với phát triển lâm nghiệp, nghề rừng ngày càng được mở rộng trong các hợp tác xã. Sản lượng khai thác gỗ tròn, củi, nứa, nguyên liệu giấy hằng năm liên tục đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch.

Các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán đã phối hợp chặt chẽ với nhau phục vụ sản xuất, đời sống và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Sản xuất đã vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp. Trong giai đoạn 1976 - 1980, hợp tác xã mua bán Thạch Long có nhiều nỗ lực trong việc phối hợp với các cấp, các ngành liên quan giải quyết tốt khâu phân phối, lưu thông, đảm bảo nhu cầu cơ bản đời sống và sản xuất của nhân dân.

Thời gian này, cả 2 trường phổ thông cấp I và cấp II đều duy trì phong trào thi đua “Hai tốt” (dạy tốt, học tốt) Những hoạt động của nhà trường nhằm đào tạo con người mới do đó thường xuyên kết hợp giáo dục với lao động sản xuất và hoạt động xã hội.

Công tác y tế được cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm chú trọng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị khám chữa bệnh và thuốc men tuy còn thiếu thốn, nhưng đội ngũ cán bộ y tế đã phối hợp với các ban ngành, đoàn thể thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện phong trào vệ sinh, phòng bệnh. Trạm xá cũng trồng thêm vườn thuốc nam với nhiều loại cây có tác dụng chữa bệnh hiệu quả.

Hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng, thông tin tuyên truyền, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi. Đội văn nghệ xã thường xuyên luyện tập, biểu diễn nhiều tiết mục văn nghệ với nội dung ca ngợi Đảng, Bác Hồ, quê hương, đất nước và tinh thần anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất của nhân dân ta. Phong trào thể thao phát triển, nhất là ở lứa tuổi thanh niên.

Cùng với nhiệm vụ khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa và bảo vệ Tổ quốc, công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng được quan tâm nhằm đảm bảo tổ chức và thực hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Tháng 10 năm 1977, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội lần thứ XV, nhiệm kỳ 1977 - 1978. Đại hội Nghị quyết: Tiếp tục khai hoang mở rộng diện tích canh tác, làm thêm kênh mương thuỷ lợi để đảm bảo tưới tiêu thuận lợi cho sản xuất, phấn đấu tăng diện tích một vụ lên hai vụ / năm.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XV gồm 9 đồng chí; Ban Thường vụ 3 đồng chí. Đồng chí Vũ Văn Bọc làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Đức Đài - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã; đồng chí Vũ Ngọc Vượng Trực Đảng ủy.

Sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ phát động phong trào thi đua hoàn thành những nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế - xã hội trong 3 năm (1977-1980) do Đại hội Đảng bộ huyện Thạch Thành lần thứ XIII (tháng 7-1976) đề ra.

Thực hiện nghị quyết của Đảng bộ, HTX đã phát động xã viên khai hoang mở rộng diên tích canh tác, nỗ lực làm thủy lợi nhằm đảm bảo chống hạn, chống lụt có hiệu quả, đẩy mạnh sản xuất. HTX có lịch trình thời vụ sát sao hơn đối với diện tích chuyển một vụ lên 2 vụ trên năm, đồng thời quan tâm tập huấn lao động canh tác cây trồng tăng vụ, thực hiện lịch canh tác nghiêm ngặt hơn.

 Thực hiện Nghị quyết 66 của Hội đồng Chính phủ “Về tổ chức quy mô hợp tác xã và củng cố hợp tác xã nông nghiệp”, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng ủy đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên và xã viên hợp tác xã học tập quán triệt tinh thần cơ bản Nghị quyết 66, đồng thời tiến hành tổ chức sắp xếp lại quy mô của hợp tác xã. Cụ thể là hợp tác xã chia thành nhiều đội sản xuất và một số đội chuyên: Đội kỹ thuật làm nhiệm vụ xác định cơ cấu cây trồng cho từng cánh đồng, mùa vụ; đội giống áp dụng khoa học kỹ thuật vào việc làm mạ, chống rét, thực hiện gieo cấy theo hàng với mật độ vừa phải; đội làm đất đảm bảo cày bừa kịp thời vụ; đội thủy nông điều hòa tưới tiêu hợp lý. Hầu hết các đội sản xuất và đội chuyên đều do đoàn viên, thanh niên và dân quân trong xã đảm nhận. Nhiều cán bộ, chiến sỹ dân quân trở thành kỹ thuật viên trên đồng ruộng, đảm nhiệm các khu ruộng thí điểm gieo cấy các giống lúa mới, hướng dẫn bà con xã viên cấy thẳng hàng. Nhờ những biện pháp chỉ đạo sản xuất kịp thời và tinh thần lao động cần cù của xã viên nên lương thực bình quân đầu người của xã đạt trên 200 kg/người.

 Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy về việc đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, Đảng bộ xã Thạch Long chủ trương khuyến khích phát triển chăn nuôi cả ở khu vực tập thể và hộ gia đình, tiến hành quy hoạch xây dựng cơ sở chăn nuôi bò, lợn. Tuy vậy, trong các năm 1979-1980 xảy ra dịch bệnh, nguồn thức ăn không đủ nên tổng đàn gia súc, gia cầm của xã giảm sút.

 Kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp với phát triển lâm nghiệp, nghề rừng ngày càng được mở rộng trong các hợp tác xã.

 Hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán đã phối hợp chặt chẽ với nhau phục vụ sản xuất, đời sống và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Sản xuất đã vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp. Trong giai đoạn 1976 - 1980, hợp tác xã mua bán Thạch Long có nhiều nỗ lực trong việc phối hợp với các cấp, các ngành liên quan giải quyết tốt khâu phân phối, lưu thông, đảm bảo nhu cầu cơ bản đời sống và sản xuất của Nhân dân.

 Về văn hóa - xã hội:

 Thời gian này, công tác văn hóa - xã hội của xã có những bước tiến quan trọng. Phong trào thi đua “Hai tốt” thường xuyên được duy trì, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Năm 1979, Bộ Giáo dục quyết định đổi tên trường cấp I + II thành trường phổ thông cơ sở. Theo đó, trường cấp I và cấp II Thạch Long sáp nhập thành trường Phổ thông cơ sở Thạch Long và có chung một Hội đồng nhà trường. Hằng năm, Đảng bộ, chính quyền và các ban ngành, đoàn thể chăm lo tới việc tu sửa trường lớp, đóng thêm bàn ghế, đảm bảo điều kiện dạy và học. Chất lượng giáo dục bước đầu được nâng cao. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, trường lớp vẫn dựng tạm bợ bằng tranh tre, vách đất, đồ dùng học tập còn thiếu thốn, đời sống của giáo viên còn nhiều khó khăn, vất vả.

 Về y tế: Tuy cơ sở vật chất, trang thiết bị khám chữa bệnh và thuốc men còn thiếu thốn, nhưng trạm xá có nhiều cố gắng trong việc phối hợp với các ban ngành, đoàn thể thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện phong trào vệ sinh, phòng bệnh, không để dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn. Trạm xá làm tốt việc trồng và chăm sóc vườn thuốc nam với nhiều loại cây có tác dụng chữa bệnh hiệu quả.

 Đảng bộ luôn quan tâm đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền cũng như các hoạt động văn hóa quần chúng, thể dục thể thao. Đội văn nghệ xã thường xuyên luyện tập, biểu diễn nhiều tiết mục văn nghệ với nội dung ca ngợi Đảng, Bác Hồ, quê hương, đất nước và tinh thần anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất của Nhân dân ta. Phong trào thể thao phát triển, nhất là ở lứa tuổi thanh niên.

Tháng 10 năm 1978, Đảng bộ Thạch Long đại hội lần thứ XVI nhiệm kỳ 1978 - 1979. Đại hội đã đánh giá thấy được sự yếu kém về năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ HTX, những hiện tượng tiêu cực làm tổn thất tài sản công trong HTX, xác định các biện pháp lãnh đạo:Vừa củng cố tổ chức vừa tăng cường tuyên truyền giáo dục ý thức tự giác của xã viên, đồng thời phát động thi đua tăng gia sản xuất, nâng cao năng suất lao động.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XVI gồm 9 đồng chí; Ban Thường vụ 3 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Thế Mạnh làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Đức Đài làm Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã; đồng chí Nguyễn Văn Chuật làm Trực Đảng. Đến tháng 5 năm 1979 huyện điều động đồng chí Lê Kỳ Lân về làm Bí thư Đảng bộ xã Thạch Long thay cho đồng chí Nguyễn Thế Mạnh.

Trong những năm 1976 - 1980, mặc dù đất nước hòa bình, thống nhất, nhưng các thế lực phản động trong và ngoài nước vẫn tìm cách chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Cuối tháng 12 năm 1978 và tháng 2 - 1979, xảy ra hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc Tổ quốc. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và chấp hành Lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cán bộ, đảng viên và Nhân dân xã Thạch Long khẩn trương triển khai chuyển hướng các mặt công tác, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương. Lớp lớp nam nữ thanh niên đã tình nguyện xung phong lên đường cầm súng chiến đấu bảo vệ biên cương Tổ quốc. Đặc biệt, phong trào tình nguyện tái ngũ của quân nhân phục viên, xuất ngũ về địa phương đang lao động sản xuất đã diễn ra sôi động, trong đó có một số đồng chí là cán bộ, đảng viên. Lực lượng còn lại được tổ chức thành các trung đội dân quân, tập trung xây dựng lô cốt, hầm hào chiến đấu, lập các chốt phòng thủ bảo vệ xóm làng. Ban Chỉ huy quân sự và Ban công an xã làm tốt công tác tham mưu giúp Đảng bộ, chính quyền xây dựng trận địa chiến đấu, thực hiện chế độ trực chiến, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, làm tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Các đoàn thể quần chúng động viên hội viên, đoàn viên cùng toàn dân trong xã nỗ lực thi đua lao động sản xuất lương thực, thực phẩm và chi viện sức người, sức của theo lệnh tổng động viên. Với tinh thần quyết chiến quyết thắng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân Thạch Long đã góp phần cùng quân dân cả nước chiến đấu anh dũng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, nền độc lập, tự do của Tổ quốc.

Đi đôi với công tác xây dựng và phát triển Đảng, Đảng ủy còn quan tâm xây dựng bộ máy chính quyền, các đoàn thể quần chúng vững mạnh. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân bầu cử Hội đồng nhân dân, bầu đủ số lượng đại biểu vào Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 1977 - 1979. Trong kỳ đầu tiên của Hội đồng nhân dân, đồng chí Nguyễn Đức Đài được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã trong các nhiệm kỳ duy trì sinh hoạt đúng định kỳ, xây dựng tốt quy chế, chương trình hoạt động toàn khóa. Với chức năng là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương.

Cùng với việc xây dựng và củng cố chính quyền, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân cũng được Đảng bộ chú ý lãnh đạo. Mặt trận Tổ quốc là trung tâm khối đại đoàn kết toàn dân, vận động mọi tầng lớp nhân dân chấp hành tốt các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức quần chúng hoạt động tích cực, thu được nhiều thành tích.

  Chuẩn bị cho đại hội nhiệm kỳ của Đảng bộ xã Thạch Long, nhằm tăng cường năng lực lãnh đạo cơ sở, Thường vụ Huyện ủy Vĩnh Thạch điều đồng chí Nguyễn Thế Mạnh đi học và giới thiệu đồng chí Lê Kỳ Lân (quê ở Thành Hưng) là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vĩnh Thạch, Trưởng ban kế hoạch Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Thạch về công tác tại xã Thạch Long.

  Ngày 05/9/1979 Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức khai mạc Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII nhiệm kỳ 1979 - 1980. Đồng chí Lê Văn Khôn - Bí thư Huyện ủy Vĩnh Thạch về dự khai mạc và giới thiệu đồng chí Lê Kỳ Lân - Huyện ủy viên được Huyện ủy Vĩnh Thạch về tăng cường cho Đảng bộ Thạch Long và giới thiệu ứng cử vào Ban Chấp hành Đảng bộ xã.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 9 đồng chí. Bầu 3 đồng chí thường vụ, Đồng chí Lê Kỳ Lân được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Đức Đài làm Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã; đồng chí Nguyễn Văn Chuật - Trực Đảng.

Nghị quyết Đại hội tập trung vào chủ trương chuyển đổi cơ cấu mùa vu, cơ cấu cây trồng vật nuôi để có năng suất và sản lượng cao hơn; đồng thời tăng cường quản lý, chống thất thoát kinh tế tập thể.

Sau Đại hội Đảng bộ, Ban Chấp hành Đảng bộ chỉ đạo Đại hội HTX toàn xã khóa II (1979 - 1982): cuối năm 1982 làm xong nhà hội trường - nay là nhà văn hóa thôn 3, thì chia HTX thành các đội sản xuất. Ban quản trị HTX gồm các thành viên: ông Vũ Ngọc Uyên làm Chủ nhiệm, ông Lê Văn Diêm - Phó Chủ nhiệm, bà Trần Thị Hân làm kế toán.

HTX Thạch Long chia thành 16 đội sản xuất (theo thứ tự từ 1 đến 16):

Các đội 1; 2; 3; 4; 5 Đại Long - Long Khang ( nay là thôn 4, có 1 chi bộ Đại Khang).

Các đội 6, 7, 8, 9, 10 Cổ Tế ( thôn 1 hiện nay): Đội 6 - Vườn Hoa, đội 7 - Cổ Long, đội 8 - Cổ Tân; đội 9 - Cổ Tiến, đội 10 xóm Tờ Chỉ.

Các đội 11, 12, 13 Hoàng Lý + Sơn Hà + Cụm dân cư Thạch Long gần cây đa: Đội 11 xóm Hón Mèn; đội 12 xóm Đồng Bún; Đội 13 làng Sơn Hà (Đồng Cò Hoằng Đại + 7 hộ Hoằng Lý); Đội 14: Cổ Lăng (thôn 3 hiện nay); Đội 15: Cự Lý (thôn 5 hiện nay); Đội 16: Hoằng Tiến (thôn 6 hiện nay).

    Ngoài các đội sản xuất, các đội ngành nghề cũng được thành lập như: Đội sản xuất gạch, vôi, mộc, nề, trồng rau màu; Đội vận chuyển bằng xe trâu bò; Đội giải phóng đất; Đội tuyên truyền văn hóa được trang bị hệ thống truyền thanh.. loa kim; Đội bảo vệ thực vật…Đồng thời thành lập nhà trẻ ở đội sản xuất. Mỗi đội sản xuất có một đội trưởng điều hành lao động và một thư ký đội ghi chép, thống kê tình hình sản xuất, đời sống của đội.

Sau khi kiện toàn bộ máy quản lý, hợp tác xã nhanh chóng lập kế hoạch sản xuất cho phù hợp với tình hình địa phương. Tỉnh điều động tăng cường cho huyện một số cán bộ kỹ thuật (trồng trọt, chăn nuôi) trung cấp và đại học, tiến hành tập huấn cho các hợp tác xã về ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong lai tạo giống, ngâm ủ xử lý hạt giống, gieo mạ trên nền đất cứng, gieo thẳng, lai tạo vật nuôi. Để khắc phục tình trạng bão lũ, chính quyền xã huy động nhân dân tích cực làm công tác thủy lợi nhằm phục vụ tốt cho việc gieo mạ, chăm sóc lúa. Các bờ ruộng, bờ đồng được khai hoang phục hóa, trồng khoai sọ, trồng sắn, rong riềng.

Tuy nhiên trong quá trình vận hành, Hợp tác xã bộc lộ nhiều yếu kém bảo thủ, trì trệ. Năng suất lao động thấp, chi phí làm ra 1 tạ thóc phải từ 40 đến 50 công vì vậy việc ăn chia cho xã viên hàng năm đều có mức ngày công thấp.

Nguyên nhân tình trạng yếu kém của hợp tác xã nông nghiệp có nhiều, nhưng chủ yếu là do cơ chế tập trung quan liêu dẫn đến tình trạng quản lý lỏng lẻo, tình trạng “dong công, phóng điểm” công làm thì nhiều, sản phẩm đạt được thì ít, kết quả không tương xứng. Cơ sở cho sản xuất nghèo nàn, trình độ quản lý hợp tác xã bộc lộ những yếu kém, trong khi lực lượng lao động trẻ, khỏe chi viện cho tiền tuyến nhiều hơn. Mặt khác do sản xuất nhỏ, manh mún, thói quen canh tác lạc hậu nên nảy sinh tư tưởng chần chừ bảo thủ, xã viên không mấy mặn mà thiết tha với hợp tác xã .Trong lao động sản xuất có một bộ phận xã viên làm ẩu, làm bừa “ Cày gãi bừa chùi”, hàng ngày lo chạy ngoài, không thiết tha với đồng ruộng, công việc của HTX. Tinh thần làm chủ kém, vật tư phục vụ sản xuất thiếu thốn, những năm lũ lụt, hạn hán mất mùa nhà nước chỉ hỗ trợ một phần lương thực, còn xã viên phải đi (mót) khoai, sắn, đào củ mài trong rừng hỗ trợ thêm phần lương thực.

Điểm lại trên 10 năm củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Quá trình xây dựng và curng cố hợp tác xã nông nghiệp là quá trình đấu tranh tư tưởng giữa 2 con đường: Một là làm ăn cá thể; Hai là làm ăn tập thể xây dựng quan hệ sản xuất mới trong thời điểm cả nước có chiến tranh. Nhân dân Thạch Long vốn có truyền thống yêu nước, cần cù lam lũ, chịu thương chịu khó, kiên trì nhẫn nại xây dựng HTX, chống chọi với thiên nhiên, chống cuộc chiến tranh phá hoại của địch, đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước và tất cả cho tiền tuyến.Vai trò Hợp tác xã nông nghiệp rất quan trọng, đã huy động đóng góp to lớn, sức người, sức của đáp ứng kịp thời cho tiền tuyến góp phần hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Trong hoàn cảnh địa hình Thạch Long thuộc vùng đất trũng, dễ xảy ra úng lụt, trình độ sản xuất còn thấp kém, chiến tranh ác liệt kéo dài, thiên tai thường xuyên gây thiệt hại nặng nề. Công tác quản lý hợp tác xã chưa tập trung thống nhất chế độ quản lý, nhìn chung là vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Mô hình kinh tế tập thể chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa được tổng kết, đánh giá đầy đủ, trình độ, năng lực quản lý kinh tế, quản lý hành chính, quản lý xã hội còn hạn chế nên chưa phát huy được sức sáng tạo, năng động của người dân. Hợp tác xã chưa thực hiện tốt phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Quản lý kinh tế trong hợp tác xã thiếu chặt chẽ, rong công, phóng điểm nên làm ra một tạ thóc còn phải chi phí hơn 40 ngày công, giá trị ngày công thấp không tương xứng với công sức bỏ ra. Kinh tế trong xã vẫn chưa thoát khỏi thuần nông, năng suất lao động thấp. Trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng sản xuất có tính công nghiệp và kinh doanh dịch vụ không đáng kể. Sản xuất phát triển chưa toàn diện đặc biệt chăn nuôi và ngành nghề phát triển kém, năng xuất sản lượng cây trồng hàng năm đạt mức thấp, kết quả sản xuất còn hạn chế, thiếu vững chắc. Những năm mất mùa, nạn thiếu đói lương thực lại xảy ra, phải mua lại lương thực dự trữ của nhà nước. Vì vậy đã hạn chế đến việc nâng cao đời sống của nhân dân, tình trạng thiếu lương thực vẫn tiếp tục xảy ra. Đời sống một bộ phận nông dân còn khó khăn, thiếu lương thực. Trong khi tập trung mọi nỗ lực vào kinh tế tập thể, kinh tế gia đình hộ xã viên bị thắt chặt,thu nhập của xã viên bị giảm sút. Những khuyết tật của cơ chế tập trung bao cấp ngày càng lộ diện. Đại hội đại biểu đảng bộ huyện Thạch Thành lần thứ XII từ 18 đến 22 tháng 4 năm 1975 đã chỉ rõ: “ Kinh tế, văn hóa của huyện phát triển chậm và thiếu vững chắc. Năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp. Hợp tác xã yếu kém nhiều, hợp tác xã khá ít. Nói chung, các hợp tác xã làm không đủ ăn, thu không đủ chi, lao động cho tập thể thiếu nhiệt tình, dối trá, chạy theo công điểm.Một số cán bộ thoái hóa biến chất, tham ô, lợi dụng tín nhiệm của quần chúngđục khoét tài sản của tập thể và Nhà nước…”(1)

Thực hiện Chỉ thị số 192-CT/TW ngày 26/10/1971 của Ban Bí thư “Về việc đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng trong cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên Lớp Hồ Chí Minh”, Chỉ thị số 73 của Bộ Chính trị “Về phát triển đảng viên và bảo vệ nội bộ Đảng”, Đảng bộ xã đưa một số đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng, làm cho tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh hơn. Qua thử thách, các tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân càng thêm vững chắc, nhận thức chính trị, tư tưởng của cán bộ, đảng viên ổn định, trưởng thành về mọi mặt, thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và cổ vũ, động viên toàn dân đưa sự nghiệp cách mạng đi lên. Việc phát triển đảng viên mới trong thời kỳ này chậm, số lượng đảng viên của Đảng bộ tăng chủ yếu là bộ đội phục viên và kết nạp mới. Đến năm 1980, Đảng bộ có 88 đảng viên.

Từ năm 1980, thực hiện Chỉ thị số 83-CT/TW ngày 26/11/1979 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về việc phát thẻ đảng viên”, Đảng bộ tổ chức phát thẻ cho các đồng chí đảng viên. Qua đó, cán bộ, đảng viên quán triệt sâu sắc ý nghĩa của công tác phát thẻ Đảng, đẩy mạnh đấu tranh phê bình và tự phê bình, nâng cao tinh thần trách nhiệm và tính tiên phong, gương mẫu, làm trong sạch nội bộ, phát huy tính chiến đấu của Đảng bộ. Việc phát thẻ Đảng đã kết hợp chặt chẽ công tác củng cố cơ sở với kiện toàn đội ngũ cán bộ, đưa cán bộ có phẩm chất, năng lực vào giữ các vị trí chủ chốt, đồng thời xử lý kịp thời những người mắc khuyết điểm củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, động viên khí thế lao động sản xuất của nhân dân.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ đã đón nhận một số đảng viên trong quân đội và các cơ quan về sinh hoạt. Cùng với việc kết nạp đảng viên mới từng năm, số lượng đảng viên của Đảng bộ ngày một tăng. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức lý luận không đồng đều, công tác quản lý, giáo dục đảng viên gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng bộ tập trung vào công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm nâng cao giác ngộ chính trị và trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên. Đảng ủy đã cử nhiều đồng chí cấp ủy và đảng viên đi học các lớp lý luận chính trị do huyện và tỉnh tổ chức, đồng thời tổ chức cho các đồng chí cán bộ theo học các lớp bổ túc văn hóa để nâng cao kiến thức văn hóa và trình độ chuyên môn. Vì vậy, các đảng viên được nâng cao trình độ, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng và xác định rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ trên từng cương vị công tác.

Cùng với việc coi trọng công tác chính trị, tư tưởng, Đảng bộ luôn chú trọng công tác tổ chức cán bộ, phát triển đảng viên mới. xây dựng quy chế làm việc, Đảng ủy chủ động xây dựng quy hoạch cán bộ, tăng cường bồi dưỡng, đào tạo nguồn. Nhiều đồng chí đảng viên được cử theo học lớp lý luận trung cấp để đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận có trình độ. Những đồng chí tuổi cao và những đồng chí năng lực yếu được thay thế bằng cán bộ có năng lực và phẩm chất tốt, đảm bảo tỷ lệ đảng viên trẻ và đảng viên nữ trong cấp ủy.

Cùng với việc xây dựng và củng cố chính quyền, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân cũng được Đảng bộ chú ý lãnh đạo. Mặt trận Tổ quốc là trung tâm khối đại đoàn kết toàn dân, vận động mọi tầng lớp nhân dân chấp hành tốt các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức quần chúng hoạt động tích cực, thu được nhiều thành tích.

Đông đảo đoàn viên, thanh niên tham gia phong trào “Ba xung kích làm chủ tập thể”. Thanh niên luôn là lực lượng xung kích trong nhiều hoạt động sản xuất như làm thủy lợi, làm phân bón, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, xung phong lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc. Khi chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, thanh niên Thạch Long hăng hái xung phong làm đơn đi đánh giặc, xin đi lên xây dựng phòng tuyến biên giới. Đoàn viên, thanh niên xã luôn là lực lượng tiêu biểu cho phong trào vừa sản xuất ở địa phương, vừa chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước.

Hội Phụ nữ đẩy mạnh phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, tích cực tham gia cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, phát triển kinh tế gia đình. Hội viên phụ nữ vận động con em đi chiến đấu, đảm bảo việc nhà, phấn đấu tiến bộ bình đẳng nam nữ, nuôi con khỏe, dạy con ngoan. Chị em phụ nữ là lực lượng quan trọng tham gia cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Các phong trào được chị em hưởng ứng, góp phần không nhỏ vào kết quả phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

  Hội Nông dân phối hợp với các ngành, đoàn thể vận động hội viên và nhân dân hưởng ứng cuộc vận động tổ chức lại sản xuất, động viên các hộ xã viên khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ lương thực, thực phẩm với Nhà nước.

Giai đoạn 1976 - 1980, Đảng bộ và nhân dân xã Thạch Long phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, trong đó coi trọng sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Tháng 10/1980, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo số 22-TB/TW về khoán sản phẩm trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là dấu hiệu mở đầu cho sự cải tiến quản lý kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp. Cùng với cả nước, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Thạch Long bước vào thời kỳ mới.

III. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NHỮNG NĂM 1981 - 1985.

Từ cuối năm 1979 đầu năm 1980, nền kinh tế tập thể của cả nước bộc lộ dấu hiệu khủng hoảng. Sản xuất nông nghiệp trong cơ chế tập trung, bao cấp không tạo được sự gắn bó giữa người nông dân với đồng ruộng, từ đó không phát huy được tính nhiệt tình trong lao động, ý thức trách nhiệm, tính chủ động sáng tạo của nhân dân. Hiện tượng “rong công, phóng điểm” khá phổ biến. Hợp tác xã tập trung điều hành mọi khâu trong khi địa bàn quá rộng, điều kiện quản lý chưa phù hợp với quy mô dẫn đến tình trạng trì trệ trong sản xuất, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, ngày 13/01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (gọi tắt là Khoán 100) về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”. Chỉ thị 100 nêu rõ mục đích của việc tiến hành khoán sản phẩm là nhằm tăng năng suất lao động, tích lũy của hợp tác xã, củng cố tăng cường quan hệ sản xuất ở nông thôn, nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên. Nội dung cụ thể của chỉ thị tập trung vào việc cải tiến và mở rộng công tác khoán sản phẩm.

Tuy nhiên, phát huy tính nhanh nhạy và nắm bắt nhịp chuyển biến mới, dưới sự hướng dẫn của Huyện ủy, Chỉ thị 100 dần đi vào thực tiễn. Định mức giao khoán sản phẩm và công việc chi tiết được Ban quản trị hợp tác xã thống nhất xem xét qua từng vụ, từng năm cho phù hợp với điều kiện cụ thể, đảm bảo trách nhiệm của xã viên trong quá trình nhận khoán nên nhân dân rất yên tâm phấn khởi, đồng tình ủng hộ và quyết tâm thực hiện công tác khoán.

 Tháng 10 năm 1980, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức khai mạc Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 1980 - 1982.

 Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XVIII gồm 9 đồng chí. Đồng chí Lê Kỳ Lân được bầu làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Văn Chuật - trực Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Đức Đài - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu huyện Vĩnh Thạch lần thứ 2 tại Nông trường Dâu tằm gồm 4 đồng chí(1). Đến tháng 7 năm 1982, đồng chí Nguyễn Thế Mạnh giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy.

Sau thành công của Đại hội, Đảng ủy tập trung lãnh đạo hợp tác xã thực hiện cải tiến công tác khoán. Đảng ủy thành lập Ban chỉ đạo công tác khoán do đồng chí Lê kỳ Lân làm Trưởng ban. Ban chỉ đạo xuống các hợp tác xã để kiểm tra, xếp loại ruộng đất, phân định mức khoán. Các hợp tác xã vẫn chia thành các đội sản xuất dựa trên quy mô xóm làm nhiệm vụ đôn đốc xã viên nộp sản phẩm, hướng dẫn xã viên gieo trồng và điều tiết thủy lợi. Trong tổ chức lao động, đội sản xuất đảm nhiệm các khâu làm đất, cung cấp giống, phân bón, thủy nông và phòng trừ sâu bệnh, xã viên đảm nhiệm gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và nộp sản phẩm về hợp tác xã.

Được giao khoán, xã viên hăng hái lao động, phấn đấu vượt khoán, diện tích canh tác trước đây bỏ hoang đã được tận dụng hết. Nhiều biện pháp tích cực được đưa vào sản xuất như sử dụng các giống lúa mới như 75-1, 75-2… cho năng suất gấp 3 lần so với các vụ trước; các giống lúa chiêm có năng suất cao như 343, 75-6… chiếm hơn 40% cơ cấu giống; áp dụng các biện pháp kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh, xã viên mạnh dạn đầu tư thêm phân chuồng, phân đạm ngoài định mức vào ruộng khoán... Không chỉ chú trọng trồng lúa, xã viên còn đẩy mạnh trồng các loại cây hoa màu như ngô, khoai góp phần phục vụ chăn nuôi, giải quyết khó khăn về lương thực và đóng góp nghĩa vụ cho Nhà nước. Nhiều gia đình đã mua sắm thêm trâu bò, xe cải tiến, công cụ sản xuất, góp phần khắc phục khó khăn về vật tư, đảm bảo được thời vụ sản xuất. Để thực hiện Khoán 100 đạt hiệu quả cao hơn, Đảng ủy chỉ đạo hợp tác xã rà soát, quản lý chặt chẽ diện tích đất canh tác, định mức sản lượng đối với từng loại ruộng, bảo đảm việc giao khoán, định mức khoán một cách công bằng, hợp lý. Các hộ xã viên tận dụng nguồn phân xanh, phân chuồng để chăm sóc lúa và hoa màu. Các loại sắn, ngô, khoai lang được duy trì bổ sung lương thực lúc giáp hạt và phát triển chăn nuôi.

Cùng với sản xuất, Hợp tác xã nông nghiệp Thạch Long cũng đầu tư phát triển chăn nuôi. Đàn trâu, bò của tập thể được giao khoán cho xã viên chăn thả, chăm sóc và sử dụng. UBND xã tiến hành rà soát đàn gia súc, gia cầm, quản lý việc giao khoán rõ ràng. Các biện pháp kỹ thuật được áp dụng trong chăn nuôi như công tác giống, thú y, tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm được hợp tác xã tiến hành kịp thời.

Hợp tác xã nông nghiệp Thạch Long còn áp dụng mô hình VAC (vườn - ao - chuồng) vào ngành chăn nuôi. Các diện tích mặt nước như ao, hồ được tận dụng triệt để để nuôi thả cá. Ở cả 2 khu vực tập thể và gia đình, hàng vạn con cá trắm được nuôi thả. Việc áp dụng mô hình VAC giúp người dân làm phong phú bữa ăn, tăng thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống.

Các ngành nghề thủ công nghiệp như nghề làm gạch ngói ở địa phương cũng có điều kiện phát triển, hợp tác xã tiến hành khoán sản phẩm cho hộ xã viên.

Thực hiện chỉ thị của cấp trên “Về củng cố và phát triển ngành hợp tác xã mua bán”, Đảng ủy tiếp tục củng cố và phát triển hợp tác xã mua bán trong những năm tiếp theo nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng.

Công tác xây dựng cơ bản, giao thông vận tải tập trung tiền vốn, nguyên vật liệu cho các công trình trọng điểm phục vụ sản xuất và đời sống. Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhiều công trình về giao thông, thủy lợi, trụ sở làm việc, trường học, Trạm y tế, được Đảng ủy quan tâm huy động nguồn vốn và sức lao động của nhân dân. Kết cấu hạ tầng nông thôn ở xã được củng cố và phát triển.

Cuối năm 1982, thực hiện việc chia tách huyện huyện Vĩnh Thạch thành hai huyện Thạch Thành và Vĩnh Lộc. Xã Thạch Long thuộc huyện Thạch Thành. Song với việc chia tách huyện, Huyện ủy Thạch Thành có chủ trương chia HTX toàn xã thành các hợp tác xã quy mô nhỏ để phù hợp với năng lực, trình độ quản lý của Ban Chủ nhiệm. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, Đảng bộ xã Thạch Long quyết nghị chia tách HTX quy mô toàn xã thành 5 hợp tác xã:

+ HTX Nông nghiệp 1 làng Cổ Tế (nay là thôn 1)

+ HTX Nông nghiệp làng Sơn Hà (Hoằng Lý và 1 số hộ Cổ Tế) - nay là thôn 2.

+ HTX Nông nghiệp làng Lăng Tiến và làng Hoằng Tiến ( nay là thôn 3 và thôn 6)

+ HTX Nông nghiệp làng Đại Long và Long Khang (thôn 4 hiện nay)

+ HTX Nông nghiệp 5 làng Cự Lý (thôn 5 hiện nay)

Cùng với thắng lợi trên mặt trận kinh tế, công tác văn hóa - xã hội có những bước tiến so với giai đoạn trước. Hệ thống các trường mẫu giáo, nhà trẻ, trường phổ thông giai đoạn 1981 - 1985 được đầu tư về cơ sở vật chất, giải quyết được tình trạng học 3 ca. Hằng năm, Ủy ban nhân dân đều hỗ trợ các trường tu sửa, đóng thêm bàn ghế. Các trường học đẩy mạnh phong trào “Thi đua học tốt, dạy tốt”, thực hiện “Kế hoạch nhỏ”. Trong nhiệm kỳ, các trường cấp I và cấp II ở Thạch Long bắt đầu thay đổi sách giáo khoa. Tỷ lệ học sinh lên lớp hằng năm đạt trên 90%.

Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân có nhiều tiến bộ. Mỗi năm, Trạm y tế xã khám chữa bệnh cho hàng trăm lượt người, tổ chức các đợt tiêm phòng, tiêm chủng cho trẻ em trong độ tuổi quy định, đồng thời tích cực vận động nhân dân ăn uống hợp vệ sinh và phòng chống dịch bệnh. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình được quan tâm, nhờ vậy, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên của xã giảm.

Công tác văn hóa, thông tin có nhiều hoạt động sôi nổi nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc. Thực hiện cuộc vận động xây dựng nếp sống mới, bài trừ hủ tục, xóa bỏ tệ nạn xã hội, quét sạch văn hóa phẩm đồi trụy, Đảng ủy chỉ đạo nhân dân tích cực thực hiện nhưng kết quả đạt được chưa cao. Việc hôn lễ, tang ma có nhiều tiến bộ với hình thức được đơn giản hóa, gọn nhẹ hơn giai đoạn trước. Phong trào thể dục thể thao, văn nghệ quần chúng thu hút đông đảo người dân tham gia. Được sự giúp đỡ của Phòng Văn hóa thông tin huyện, các thôn, xóm củng cố và lắp đặt hệ thống loa truyền thanh, kịp thời tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước tới quần chúng nhân dân.

Công tác giữ gìn an ninh trật tự và củng cố quân sự địa phương được cấp ủy quan tâm. Đảng bộ vận động đoàn viên, thanh niên trong độ tuổi thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự, đồng thời giáo dục cho nhân dân hiểu rõ vai trò của việc giữ gìn trật tự an toàn xã hội, nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù. Thạch Long là xã có phong trào quần chúng đấu tranh chống trộm cắp, tội phạm hình sự tiêu biểu của huyện Thạch Thành. Hằng năm, Đảng ủy chỉ đạo công tác gọi khám tuyển và giao quân đảm bảo đủ chỉ tiêu, không xảy ra hiện tượng đào ngũ. Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, Đảng ủy và các cấp, các ngành thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách đãi ngộ của Đảng, Nhà nước đối với các gia đình thương binh, liệt sỹ, những gia đình có công với cách mạng.

Công tác xây dựng Đảng: Nhận thức sâu sắc vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của địa phương, Đảng ủy thường xuyên quan tâm tới công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Quán triệt chỉ đạo của cấp trên, trong nhiệm kỳ, Đảng ủy xã tổ chức cho cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Đảng bộ đã đề ra mục tiêu xây dựng Đảng bộ vững mạnh dựa trên ba công tác: Chính trị, tư tưởng, tổ chức. Trong giai đoạn 1981 - 1985, Đảng ủy chỉ đạo xây dựng nền nếp sinh hoạt Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên và phát triển đảng viên mới, tổ chức cho đảng viên học tập, nghiên cứu các nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, học tập nghị quyết, nhận thức, tư tưởng và lập trường của người đảng viên được nâng cao.

Tháng 10 năm 1983, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội lần thứ XIX, nhiệm kỳ 1983 - 1985. Đại hội đã khẳng định sau những năm 1980-1982, thực hiện khoán trong nông nghiệp theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, sản xuất của Thạch Long đã có bước chuyển biến đáng kể. Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra rằng: đến thời điểm này khoán 100 cũng đã bộc lộ những nhược điểm: Cơ chế tập trung quan liêu vẫn còn được duy trì trong hợp tác xã, cũng như toàn bộ hệ thống tái sản xuất xã hội trong nông nghiệp. Hệ thống này cùng tính chất mệnh lệnh hành chính, mà hậu quả của nó đè lên vai người nông dân, trước hết là hộ nhận khoán. Mức khoán không ổn định, được điều chỉnh theo từng năm, ngày càng cao hơn khiến xã viên được hưởng lợi rất ít. Người nông dân chỉ còn lại khoảng 16-20% sản lượng khoán, không bù đắp được vốn và sức lao động bỏ ra, Vì vậy, động lực vừa mới được tạo ra đã dần bị triệt tiêu. Hộ nông dân không đủ khả nǎng bảo đảm tái sản xuất và nhu cầu đời sống nên đã phải trả lại bớt ruộng đất. Số ruộng đất bị trả lại thì HTX lại phải quay trở lại khoán việc đẫn đến xã viên không hào hứng với các công việc do hợp tác xã huy động, năng xuất lao động và hiệu quả sản xuất lại giảm sút nhanh chóng. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự sửa đổi để tiếp tục phát triển, Đại hội đã nghị quyết về các nhiệm vụ, giải pháp khắc phục yếu kém để phát triển kinh tế HTX, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa công tác thủy lợi để nâng cao năng suất cây trồng…

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa XIX gồm 9 đồng chí; Ban Thường vụ Đảng ủy 3 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Thế Mạnh làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Đức Đài, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã; đồng chí Nguyễn Văn Chuật -UVBan Thường vụ, trực Đảng ủy.

Còn thiếu phần Kinh tế, VHXH, QPAN

Đại hội đã đúc rút những kinh nghiệm bước đầu của quá trình tổ chức lại quy mô HTX và công tác tổ chức khoán, khẳng định tính đúng đắn và sự tác động tích cực của công tác khoán sản và việc tổ chức quy mô HTX phù hợp với năng lực trình độ quản lý của cán bộ. Đảng bộ nhận thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu và chỉ đạo sâu sát hơn nữa trong việc triển khai thị hiện chủ trương khoán của Trung ương và tổ chức hoạt động của HTX mang lại hiệu quả thiết thực.

Giai đoạn này huyện chủ trương kiên trì chỉ đạo hoàn thành 2 công trình thuỷ lợi lớn: Trạm bơm điện Yên Tôn, đập thủy lợi Đồng Múc và 4 công trình thủy lợi nhỏ khác theo kiểu mở công trường thủ công, huy động nhiều lao động tập trung trên công trường. Nhân dân Thạch Long nhận thấy việc quy hoạch hệ thống kênh chính trên thân đất cao so với đa số đồng ruộng trong xã sẽ mang lại tiềm năng tưới cho hầu hết diện tích canh tác, mở ra khả năng tăng vụ cho nhiều diện tích nên rất phấn khởi, dốc toàn lực lên công trường đào đắp kênh mương. Do kênh mương của hệ thống bơm Yên Tôn qua Thạch Long, Thạch Đồng dài, với khối lượng đào đắp rất lớn, huyện huy động lực lượng lao động của hai xã Thành Kim, Thành Hưng lên công trường để khẩn trương hoàn chỉnh thuỷ nông cho cụm xã Thạch Long, Thạch Đồng. Nhờ đó hệ thống kênh chính sớm được hoàn thành. Nhân dân toàn xã lại dốc sức làm kênh tưới, kênh tiêu nội đồng theo yêu cầu đồng bộ quy hoạch. Để phát triển sản xuất, đặc biệt là thực hiện Khoán 100 được nhà nước đầu tư xây dựng trạm bơm Long - Đồng.

 Đến năm 1985, xã đã sửa chữa và nâng cấp hệ thống đường liên thôn, liên xã, duy trì bảo dưỡng các tuyến đường trục chính nội xã nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho việc đi lại của nhân dân. Ngoài ra, Đảng ủy còn chú trọng đầu tư sửa chữa trường học, Cùng với việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, đội ngũ cán bộ Trạm y tế tích cực tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện “3 công trình vệ sinh (giếng nước, nhà tắm, nhà vệ sinh). Tuy vậy, đến năm 1985, xã vẫn chưa xây dựng dứt điểm 3 công trình vệ sinh. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình được cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể quần chúng quan tâm, nên tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên của xã giảm.

 

 Trong lĩnh vực lưu thông phân phối, hợp tác xã mua bán khắc phục những khó khăn, nỗ lực đáp ứng các nhu cầu ở địa phương về nông cụ và một số mặt hàng thiết yếu.

Đến năm 1985, HTX Nông nghiệp Lăng Tiến tiếp tục chia thành 2 HTX là: HTX Nông nghiệp 3 làng Cổ Lăng ( thôn 3 hiện nay) và HTX Nông nghiệp 6 làng Hoằng Tiến (thôn 6 hiện nay). Như vậy, thời gian này toàn xã có 7 hợp tác xã nông nghiệp.

Các loại sắn, ngô, khoai lang được duy trì bổ sung lương thực lúc giáp hạt và phát triển chăn nuôi. Đến năm 1985, năng suất, sản lượng lương thực đều tăng.

Nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ, đảng viên trong giai đoạn 1981 - 1985, Đảng bộ đã cử hàng chục đảng viên đi học các lớp lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ do tỉnh và huyện mở, trong đó hầu hết các Đảng ủy viên và chi ủy viên đều được cử đi các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị.

Hằng năm, Đảng ủy chăm lo bồi dưỡng các quần chúng ưu tú để kết nạp vào Đảng. Từ năm 1980 đến năm 1985, Đảng bộ kết nạp thêm 8 quần chúng ưu tú. Thông qua công tác phát triển Đảng và tiếp nhận đảng viên ở địa phương khác về sinh hoạt, số lượng đảng viên của Đảng bộ tăng từ 88 đồng chí (năm 1980) lên 96 đồng chí (năm 1985).

Xác định xây dựng phải đi đôi với kiểm tra, Đảng ủy chú trọng công tác kiểm tra để kịp thời uốn nắn những sai sót trong quá trình thực hiện Điều lệ Đảng cũng như chỉ thị, nghị quyết của các cấp. Đảng ủy trực tiếp chỉ đạo các chi bộ yếu kém, kiên quyết xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm chính sách, thoái hóa biến chất, làm mất uy tín trong nhân dân. Ngoài ra, Đảng bộ cũng quan tâm bồi dưỡng số Đảng viên là quân nhân phục viên, bộ đội xuất ngũ. Đây là nguồn cán bộ bổ sung quan trọng cho địa phương vì đa số các đồng chí đã được tôi luyện, trưởng thành trong chiến đấu, giàu kinh nghiệm trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống.

Đảng bộ luôn chú trọng xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền. Trong 5 năm (1981 - 1985), ở Thạch Long diễn ra 2 kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp vào năm 1981 và năm 1984. Đồng chí Nguyễn Đức Đài được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân nhiệm kỳ 1981 - 1984, và nhiệm kỳ 1984 - 1987. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tổ chức chỉ đạo thực hiện tốt công tác an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, nghĩa vụ quân sự đối với Nhà nước, đẩy mạnh xây dựng công tác văn hóa - xã hội, thi hành pháp chế xã hội chủ nghĩa ở địa phương.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát huy vai trò tập hợp, đoàn kết nhân dân. Mặt trận Tổ quốc xã tổ chức các buổi giới thiệu đại biểu ứng cử Hội đồng nhân dân cấp xã, hướng nhiệm vụ trọng tâm vào xây dựng khối đoàn kết toàn dân, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, vận động nhân dân thực hiện nếp sống văn hóa mới.

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã phát huy vai trò xung kích, làm nòng cốt trong sản xuất. Đoàn Thanh niên đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị với nội dung “Tuổi trẻ với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, phong trào “Ba xung kích làm chủ tập thể” được đông đảo đoàn viên, thanh niên tích cực hưởng ứng tham gia.

Hội Phụ nữ xã đi đầu trong các hoạt động xây dựng Gia đình văn hóa, thực hiện các phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” thu hút đông đảo chị em tham gia. Tuy đời sống còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ và nhân dân Thạch Long luôn phấn đấu giữ vững là một xã có phong trào thi đua khá của huyện Thạch Thành.

Sau gần 10 năm (1976 - 1985), Đảng bộ và nhân dân Thạch Long cùng cả nước đã thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mặc dù còn nhiều khó khăn do cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất còn nghèo nàn, lạc hậu nhưng nhân dân Thạch Long với tinh thần đoàn kết, quyết tâm sản xuất và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh.

Sau Đại hội Đảng toàn quốc năm 1986 mới bắt đầu chuyển dần sang nền kinhg tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo đường lối đổi mới nền kinh tế của Đảng. Đảng bộ xã Thạch Long đã chỉ đạo nhân dân chuyển dịch nền kinh tế theo nền kinh tế theo sự lãnh đạo của Đảng, song do nền kinh tế vẫn đang chế độ bao cấp. Nền kinh tế chậm tiếp cận với nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

 

 

 


 

 

 Chương V

ĐẢNG BỘ XÃ THẠCH LONG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN

THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG

 (1986 - 1996)

 

I. NHỮNG NĂM ĐẦU THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 - 1990)

Ngay từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế - xã hội nước ta đứng trước tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Sự yếu kém trong quản lý điều hành, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp ngày càng bộc lộc rõ, người lao động không thiết tha với đồng ruộng, sản xuất tiểu thủ công nghiệp giảm sút. Trong khi đó các thế lực đế quốc và bọn phản động ra sức bao vây cấm vận, chống phá sự nghiệp cách mạng của nước ta. Hàng hóa trong nước khan hiếm, giá cả tăng nhanh, tiêu cực phát sinh, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

  Trong bối cảnh trên, thực hiện Chỉ thị số 79-CT/TW ngày 11/3/1986 của Ban Bí thư về tổ chức đợt tự phê bình và phê bình, chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, năm 1986, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, Tháng 10 năm 1986 Đảng bộ xã Thạch Long đã tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ XX, nhiệm kỳ 1986 - 1988. Tham dự Đại hội có 86 đảng viên. Đại hội, tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 100, đánh giá những tồn tại, hạn chế của nhiệm kỳ vừa qua và nhất trí thông qua những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong nhiệm kỳ tới. Đại hội cũng dành thời gian tập trung thảo luận, đóng góp ý kiến vào Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa V và Dự thảo sửa đổi Điều lệ Đảng trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.

 Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XX gồm 9 đồng chí. Ban Chấp hành bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ, đồng chí Nguyễn Thế Mạnh tiếp tục được bầu giữ chức Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Vũ Ngọc Uyên làm Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã, đồng chí Nguyễn Văn Chuật làm trực Đảng.

Tháng 12/1986, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tại Hà Nội. Đại hội thẳng thắn chỉ ra sai lầm, khuyết điểm trong việc chỉ đạo phát triển kinh tế từ năm 1976 đến năm 1985. Đại hội chủ trương thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, với nhiệm vụ trước mắt trong 5 năm tới 1986 - 1990 là hoàn thành 3 chương trình kinh tế: Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế; xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường, hạch toán kinh doanh; lấy kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc cao nhất để phân phối sản phẩm cho người lao động.

Bước vào thực hiện nhiệm vụ mới, xã Thạch Long phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Việc thực hiện Nghị quyết 08 của Trung ương về giá - tiền - lương năm 1985, đã khiến cho giá cả, vật tư, hàng hóa tăng nhanh với tốc độ chóng mặt, người nông dân không đủ khả năng để mua giống, phân bón, thuốc trừ sâu hơn nữa trong những năm 1986 - 1987, tình hình thời tiết thường xuyên có những diễn biến phức tạp, hạn hán, sâu bệnh gây thiệt hại cho nông nghiệp.

  Sau khi thực hiện Khoán 100, kinh tế địa phương có nhiều chuyển biến tích cực, khắc phục được những trì trệ, yếu kém do quan hệ sản xuất cũ. Trong sản xuất nông nghiệp, ngoài lúa là cây lương thực chính, địa phương còn trồng nhiều cây hoa màu khác như ngô, sắn... Tuy vậy, năng suất và sản lượng lương thực chưa cao, trong khi đó việc giải quyết định mức lao động và phân chia sản phẩm còn hạn chế.

Sau một thời gian triển khai, cơ chế Khoán 100 bên cạnh những mặt tích cực cũng bộc lộ không ít yếu kém, hạn chế. Công tác quản lý của các hợp tác xã chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Mức khoán không ổn định, thời gian giao đất ngắn hạn nên các hộ nông dân không yên tâm đầu tư cải tạo đồng ruộng. Bên cạnh đó, bão lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra nên năng suất, sản lượng giảm sút dẫn đến vốn của hợp tác xã bị chiếm dụng, xã viên khê đọng sản phẩm ngày càng tăng. Để kịp thời khắc phục những hạn chế trong thực hiện khoán 100, mở ra hướng phát triển mới trong nông nghiệp, ngày 5 tháng 4 năm 1988, Bộ Chính trị khóa VI ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW “Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” (gọi tắt là Nghị quyết 10 hay Khoán 10). Đây là bước ngoặt có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế nông nghiệp trên phạm vi cả nước. So với Khoán 100 thì Khoán 10 đã có một bước đột phá trong tư duy quản lý kinh tế khi thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, theo đó, người nông dân được trao quyền sử dụng đất và mức khoán lâu dài. Để đưa Nghị quyết vào cuộc sống, giữa năm 1988, Đảng bộ đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân học tập quán triệt Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về việc đổi mới công tác quản lý trong nông nghiệp.

Nghị quyết 10 của Đảng vừa được phổ biến đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, đem lại sinh khí mới cho nền nông nghiệp địa phương. Ruộng đất cũng được chia về cho các hộ xã viên. Trong tình hình mới, các hợp tác xã nông nghiệp đồng loạt tự giải thể, tính tích cực chủ động sản xuất trong các hộ gia đình được nâng lên. Đảng bộ, chính quyền động viên, khuyến khích nhân dân đẩy mạnh khai hoang nhằm mở rộng diện tích canh tác, bên cạnh đó tận dụng hiệu quả diện tích ruộng đất hiện có để thâm canh tăng năng suất lúa, màu, nỗ lực khắc phục những khó khăn do thiên tai gây ra. Nhờ có những biện pháp trên và sự phấn khởi, tích cực trong sản xuất nên nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc.

Trong năm 1987, Đảng ủy đã chỉ đạo UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tổ chức thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1987 - 1989.

Tháng 10 năm 1988, Đại hội Đảng bộ xã Thạch Long lần thứ XXI, nhiệm kỳ 1988 - 1991, tổ chức tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã. Tham dự Đại hội có 144 đảng viên. Trên cơ sở đánh giá những kết quả và hạn chế trong 2 năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ thực hiện trong nhiệm kỳ là: Triển khai công tác Khoán 10, thực hiện đổi mới lề lối làm việc, phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể, động viên nhân dân khắc phục khó khăn để ổn định sản xuất.

Đại hội bầu 9 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa XXI. Ban Chấp hành Đảng bộ khóa mới bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Đức Đài  giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy; Đồng chí Lê Đình Quang làm Phó bí thư chủ Tịch UBND xã Đồng chí Phạm Duy Lâm làm thường vụ Trực Đảng.

 Sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo thực hiện Khoán 10. Đảng ủy chỉ đạo hợp tác kiểm kê lại toàn bộ diện tích để làm cơ sở giao khoán cho hộ xã viên, đồng thời tổ chức bộ máy quản lý hợp tác xã theo hướng gọn nhẹ. Hợp tác xã tiến hành đo đạc ruộng đất, sau đó phân chia và giao khoán cho từng hộ xã viên, hướng dẫn cho các hộ nông dân nhận khoán và đấu thầu những phần ruộng đất khó canh tác. Cơ chế khoán mới đã tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.

 Chăn nuôi có bước phát triển hơn so với thời kỳ trước, hợp tác xã bán đàn trâu, bò cho từng hộ xã viên, có chủ sở hữu nên được chăm sóc cẩn thận, tỷ lệ gia súc chết do đói, bệnh dịch giảm đi. Đàn lợn, gia cầm tăng nhanh đáp ứng đủ nhu cầu thực phẩm cho Nhân dân.

 Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị vào sản xuất lâm nghiệp, cấp ủy Đảng và chính quyền tập trung lãnh đạo và chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm về công tác lâm nghiệp. Người dân đã có ý thức được việc bảo vệ và chăm sóc rừng. Từ năm 1988 đến năm 1989, xã bắt đầu thực hiện dự án trồng rừng do tổ chức PAM và dự án 327 tài trợ. Đất rừng cũng như đất sản xuất nông nghiệp được giao khoán đến hộ xã viên và người lao động. Cây trồng được chăm sóc và bảo vệ tốt, bước đầu cho thấy hiệu quả của khai thác giá trị cây lâm sản, tuy vậy do việc sử dụng diện tích đất rừng được giao một cách tùy tiện, không có quy hoạch nên đã cho hiệu quả kinh tế thấp.

 Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công tác giao khoán, xã cũng gặp phải một số hạn chế. Trong lúc chuyển giao, từ thói quen quản lý theo cơ chế hành chính bao cấp hiện nay sang cơ chế quản lý hạch toán kinh tế theo hộ gia đình, bộ máy chính trị tỏ ra lúng túng trong điều hành sản xuất. Một số nông dân có tư tưởng tiểu nông trỗi dậy, đòi lại ruộng đất của ông cha. Đảng bộ đã kịp thời thảo luận và đề ra những biện pháp hợp tình hợp lý, giải thích cho người dân hiểu và tiếp tục xây dựng, củng cố hợp tác xã. Trên cơ sở phân chia lại ruộng đất, trâu cày hợp lý, bình quân mỗi lao động quy là 1 sào, vòng quay đất từ 2 đến 3 vụ (2 vụ lúa và 1 vụ màu).

 Lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng có những bước tiến đáng kể. Về Giáo dục được Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tạo điều kiện phát triển. Cơ sở vật chất của các trường cấp 1, cấp 2 trên địa bàn được đầu tư thêm nhiều bàn ghế, sửa chữa để đảm bảo điều kiện học tập của con em. Nhà trường từng bước đổi mới phương pháp dạy và học.

 Trạm y tế xã được đầu tư thêm giường bệnh, thuốc, và cơ sở vật chất phục vụ cho việc khám, chữa bệnh. Cán bộ y tế thường xuyên được bồi dưỡng về kiến thức và y đức với nghề nhằm nâng cao chuyên môn và thái độ, trách nhiệm đối với người bệnh. Ý thức của người dân đối với việc phòng tránh bệnh tật được nâng cao.

 Công tác quốc phòng -an ninh: Thấm nhuần quan điểm “xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, trong 5 năm (1986 - 1990), Đảng bộ xã Thành Long lãnh đạo Nhân dân triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng xã vững mạnh toàn diện, an toàn. Công tác quốc phòng - an ninh tiếp tục được xây dựng củng cố về mọi mặt. Lực lượng bán vũ trang được tinh giảm theo Điều lệ mới, đội ngũ cán bộ được củng cố. Lực lượng trực tiếp chiến đấu được rà soát lại, đủ sức chiến đấu trong mọi tình huống. Lực lượng dân quân củng cố lại tuyến phòng thủ, hoàn chỉnh phương án tác chiến. Hằng năm, lực lượng dân quân xã tham gia luyện tập đạt 100%, kết quả kiểm tra bắn đạn thật đạt 95% khá, giỏi. Bên cạnh đó, lực lượng dân quân xã còn phối hợp với lực lượng công an, tham gia canh gác giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

 Thực hiện Chỉ thị số 135-CT ngày 14-5-1989 của Hội đồng Bộ trưởng về “Tăng cường công tác bảo vệ trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới”, lực lượng công an xã đã phối hợp với các cấp, các ngành triển khai tăng cường bảo vệ an ninh trật tự trên địa bàn. Lực lượng công an được cấp ủy chỉ đạo thường xuyên hoạt động sâu sát, kiên quyết bài trừ các phần tử xấu trong và ngoài xã, bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản của Nhân dân.

    Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể trong hệ thống chính trị được Đảng ủy đặc biệt quan tâm.

    Đảng ủy xã Thạch Long xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, bởi muốn công cuộc đổi mới trên địa bàn xã thành công, trước hết tổ chức Đảng và mỗi đảng viên phải tự đổi mới bản thân, phải thường xuyên phê bình và tự phê bình, không ngừng hoàn thiện bản thân để đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng.

Trên cơ sở nắm vững các nội dung, yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong công cuộc đổi mới, phát huy những ưu điểm, khắc phục những tồn tại yếu kém trong công tác xây dựng Đảng từ các nhiệm kỳ trước, Ban Chấp hành Đảng bộ đã tổ chức cho toàn thể đảng viên trong Đảng bộ học các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa và của Huyện ủy Thạch Thành. Giai đoạn này, công tác phát triển đảng viên được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Từ năm 1986 đến năm 1988, Đảng bộ kết nạp thêm 13 quần chúng ưu tú vào Đảng. Năm 1986, Đảng bộ có 131 đảng viên, đến năm 1988, Đảng bộ có 144 đảng viên.

  Trong năm 1989, Đảng ủy đã chỉ đạo tổ chức UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1989 - 1994 trên tinh thần dân chủ, an toàn, đúng luật.

  Hội đồng nhân dân xã đã phát huy vai trò trong việc đưa Nghị quyết của Đảng vào đời sống nhân dân, quyết định những vấn đề quan trọng trong đời sống dân sinh, kinh tế ở địa phương bằng các nội quy quy chế và nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh.

 

  Sau kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã được kiện toàn lại đã đổi mới phương thức và nội dung lãnh đạo quản lý điều hành của UBND xã có nhiều tiến bộ. Ủy ban nhân dân thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi các nghị quyết do Đảng ủy và Hội đồng nhân dân ban hành  

  Cùng với công tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền, Đảng bộ còn chú trọng tới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng. Mặt trận Tổ quốc đã làm tốt vai trò của mình trong cuộc bầu cử Quốc hội, vận động nhân dân thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đoàn kết khắc phục khó khăn, tích cực sản xuất và đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước. Đoàn Thanh niên với phong trào “Thanh niên tình nguyện xung kích trên mặt trận quốc phòng - an ninh”, “Ba xung kích làm chủ tập thể”; Hội Phụ nữ với phong trào “Người Phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “Nuôi con khỏe, dạy con ngoan” và “Kế hoạch hóa gia đình”. Hội Nông dân tích cực tuyên truyền, vận động hội viên ra sức thi đua lao động, sản xuất, phát triển kinh tế hộ gia đình, mạnh dạn chuyển đổi mô hình sản xuất, chú trọng áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi, trao đổi với mọi người dân trong xã về kinh nghiệm làm kinh tế VAC để nâng cao đời sống. Vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ngày càng được phát huy

Ngày 06/12/1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 173-CT/TW về việc thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam, năm 1990, Ban Chấp hành lâm thời Hội Cựu chiến binh của xã Thạch Long được thành lập với 53 hội viên. Ngày 07 tháng 5 năm 1991, Hội CCB xã được thành lập với 86 hội viên là những đồng chí đã từng trải qua chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, bước đầu đi vào hoạt động ổn định.

  Với nỗ lực và quyết tâm vượt qua thử thách, khó khăn, Đảng bộ và nhân dân xã Thạch Long đã triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bước đầu đạt được những thành tích quan trọng. Tuy nhiên, những tác động khách quan và chủ quan đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền, các ban ngành và toàn thể nhân dân phải vượt qua thử thách, nắm bắt cơ hội, năng động, sáng tạo, đoàn kết và nỗ lực hết mình để thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng trong những giai đoạn tiếp theo.

II.THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG, TỪNG BƯỚC ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (1991 - 1996)

Bước vào năm 1991, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến, cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ thống xã hội chủ nghĩa dẫn đến sự tan rã, sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Các thế lực đế quốc và phản động quốc tế ráo riết thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa còn tồn tại ở một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Những khó khăn trong nước cùng với âm mưu, thủ đoạn chống phá từ nhiều phía của các thế lực thù địch đã đặt nước ta trong bối cảnh hết sức phức tạp.

Trước tình hình đó, ngày 24/6/1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã diễn ra tại Hà Nội, thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”. Đại hội xác định mục tiêu tổng quát trong 5 năm (1991 - 1995) là: Vượt qua những khó khăn, thử thách ổn định và phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội nhằm sớm đưa nước ta cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.

Tháng 10 Năm 1991, dưới sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy Thạch Thành, Đảng bộ xã Thạch Long tiến hành Đại hội lần thứ XXII, nhiệm kỳ 1991 - 1994. Tham dự Đại hội có 120 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã thông qua Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XXI, trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, quốc phòng, an ninh, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị. Trên cơ sở đó, Đại hội đã đề ra mục tiêu phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ trong nhiệm kỳ mới.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa mới gồm 09 đồng chí; Ban Thường vụ Đảng ủy 3 đồng chí. Đồng chí Phạm Duy Lâm được bầu làm Bí thư Đảng uỷ, đồng chí Phạm Viết Lĩnh làm Phó Bí thư Đảng uỷ; đồng chí Lê Đình Quang , Chủ tịch UBND xã; đồng chí Đặng Quang Đắc làm Ủy viên Ban Thường vụ, trực Đảng.

Kinh tế nông nghiệp tiếp tục được Đảng bộ xã Thạch Long lãnh đạo đẩy mạnh phát triển. Tuy nhiên, do thời tiết không thuận lợi, rét đậm, rét hại kéo dài nên vụ đông xuân năm 1991 và vụ đông xuân năm 1992 lúa bị chết nhiều hoặc không phát triển được (mất mùa toàn miền Bắc). Trước tình hình đó, để hoàn thành chỉ tiêu lương thực trong cả năm, Đảng ủy chỉ đạo nhân dân đẩy mạnh gieo cấy vụ mùa, đảm bảo cấy hết diện tích. Cán bộ khuyến nông hướng dẫn quy trình kỹ thuật chăm bón lúa, hướng dẫn nhân dân cách phòng trừ sâu bệnh. Nông dân chuẩn bị kỹ về giống, vật tư, thuốc trừ sâu, chủ động tưới tiêu… Ngoài cây lúa, xã chú trọng trồng và chăm sóc các loại cây hoa màu như ngô, khoai, sắn.

Giai đoạn này, nhân dân cũng đẩy mạnh đầu tư cho chăn nuôi, chú trọng phòng dịch bệnh. Các hộ gia đình chăm sóc cho đàn trâu, bò nhằm đảm bảo sức kéo, bước đầu nuôi bò lai Sin cho sản lượng thịt cao. Mặc dù giá cả thức ăn chăn nuôi không ổn định nhưng đàn lợn vẫn phát triển mạnh, đặc biệt là đàn lợn nái đủ nguồn cung về con giống.

Công tác xây dựng cơ bản đã đạt được những kết quả tốt. Trong giai đoạn 1991 - 1995, hoạt động xây dựng và tu bổ các tuyến đường, giải tỏa hành lang giao thông được quan tâm. Xã tiến hành xây dựng kế hoạch phát triển giao thông nông thôn đến năm 2000, thực hiện rải đường cấp phối, rãnh thoát nước, rải nhựa. Tuy nhiên, thời gian này, ở Thạch Long vẫn là đường đất, mỗi khi trời mưa kéo dài gây ra tình trạng lầy lội, xe cộ đi lại khó khăn.

Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể nhân dân thường xuyên chăm lo các gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng. Cuộc vận động Quỹ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng Nhà tình nghĩa, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng, phong trào xóa đói giảm nghèo, các hoạt động từ thiện giúp đỡ người tàn tật, được toàn dân quan tâm hưởng ứng, mang lại những kết quả thiết thực. Thạch Long luôn là xã thực hiện tốt truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” trong huyện.

Từ nền tảng đời sống vật chất được cải thiện, công tác giáo dục, y tế, văn hóa trên địa bàn xã Thạch Long từng bước được quan tâm đầu tư. Trong công tác giáo dục, xã đã hoàn thành việc xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục Tiểu học, trẻ đúng độ tuổi được đến lớp đầy đủ, hạn chế mức thấp nhất số học sinh bỏ học hay lưu ban. Bằng nguồn vốn đầu tư xây dựng của cấp trên và sự đóng góp của nhân dân, trường học cũ bị xuống cấp được xã đầu tư kiến thiết sửa chữa, các phòng học cho giáo viên làm việc và các thiết bị phục vụ cho giảng dạy được đầu tư. Nhờ vậy, chất lượng giáo dục ở các cấp được nâng cao. Công tác giáo dục Mầm non được chăm lo, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập, vui chơi của các cháu.

Trong công tác y tế, cán bộ Trạm y tế xã thường xuyên phối hợp cùng các đoàn thể tiến hành vận động toàn dân cho trẻ đi uống vitamin A, tiêm phòng bệnh uốn ván cho phụ nữ. Mạng lưới y tế xã đã bước đầu đáp ứng được nhu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, các trang thiết bị của Trạm y tế được đầu tư sửa chữa. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình đã đi vào cuộc sống và tạo ra những chuyển biến tích cực. Các biện pháp về thực hiện sinh đẻ có kế hoạch có tác dụng tốt, được đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng.

Phong trào thể dục thể thao được duy trì ở hầu hết các thôn xóm, trường học... thu hút đông đảo quần chúng tham gia luyện tập, thi đấu giao lưu. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ đã bám sát chủ trương của Đảng và Nhà nước, động viên nhân dân lao động sản xuất, phục vụ các ngày lễ lớn trong năm. Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới được đông đảo nhân dân tham gia, từ đó giảm tệ nạn xã hộ,i góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Công tác quốc phòng, an ninh địa phương luôn được cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm, quá trình tổ chức, triển khai thực hiện nhiệm vụ luôn vận dụng tốt cơ chế: Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, Quân sự, Công an làm tham mưu. Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh;

Mặc dù thời gian này là thời bình nhưng nguy cơ bất ổn xã hội vẫn tiềm ẩn, các thế lực phản động trong và ngoài nước cấu kết với nhau nhằm chống phá cách mạng nước ta. Trong bối cảnh đó, Đang bộ tập trung lãnh đạo toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đập tan âm mưu gây rối trật tự an ninh của kẻ thù, đồng thời xây dựng ở các thôn tổ an ninh hòa giải, giải quyết những vụ việc phức tạp, giữ vững trật tự an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phòng chống thiên tai, dịch bệnh….

Xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lực lượng quân quân có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất, đạo đức tốt, có đủ năng lực, trình độ chuyên môn, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; Công tác đăng ký quân dự bị động viên, động viên thanh niên nhập ngũ luôn hoàn thành tốt, hằng năm giao quân đều đạt kế hoạch đề ra.

Đi đôi với nhiệm vụ đẩy mạnh và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ đặc biệt quan tâm tới công tác chỉ đạo xây dựng, củng cố Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng.

Sau khi tiến hành đại hội Đảng bộ thành công, hoạt động của Ban Chấp hành được củng cố và nâng lên rõ rệt; tinh thần đoàn kết thống nhất trong Đảng cao; đội ngũ cán bộ được trẻ hóa, có trình độ năng lực và nhiệt tình công tác. Đảng bộ đã chỉ đạo các chi bộ thôn tiến hành củng cố lại cấp ủy cơ sở, tăng cường nắm bắt, theo dõi tình hình đời sống của nhân dân, phân công từng đảng viên hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế, ổn định đời sống. Thường xuyên duy trì sinh hoạt của Đảng ủy cũng như các chi bộ thôn theo chế độ hàng tháng, quý, 6 tháng. Đảng bộ đã chú trọng đến công tác bồi dưỡng, giáo dục và phát triển đảng viên, nâng tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ là 120 đồng chí.

Công tác phát triển đảng viên mới được Đảng ủy xã xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nhằm trẻ hóa đội ngũ đảng viên và tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Những đảng viên già yếu, ốm đau thường xuyên, hoàn cảnh khó khăn tự nguyện có đơn xin miễn hoãn sinh hoạt được cấp giấy chứng nhận đảm bảo đúng nguyên tắc, Điều lệ Đảng. Đến năm 1994, Đảng bộ xã Thạch Long có 120 đảng viên.

Công tác kiểm tra, xử lý đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng được tiến hành nghiêm túc, kịp thời đảm bảo đúng quy định. Qua kiểm tra đã phát hiện và uốn nắn những đảng viên vi phạm đồng thời khen thưởng, biểu dương những cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng có thành tích xuất sắc trong công tác, học tập và rèn luyện.

Tháng 8 năm 1994, Đảng bộ tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ XXIII nhiệm kỳ 1994 - 1996, có 120 đảng viên tham dự Đại hội. Đại hội đã thông qua báo cáo chính trị, báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XXII. Trên cơ sở phân tích những thuận lợi và khó khăn hiện tồn, tiếp thu những quan điểm đổi mới, căn cứ vào những đòi hỏi bức súc của cuộc sống, Đại hội đã tập trung thảo luận những nhiệm vụ mục tiêu và giải pháp lớn, tìm ra những bước đi thích hợp cho từng năm để đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, ổn định đời sống Nhân dân; đảm bảo quốc phòng an ninh trong những năm 1994 - 1996.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 9 đồng chí; Ban Thường vụ 3 đồng chí. Đồng chí Đặng Quang Đắc làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Lê Đình Quang làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; đồng chí Lê Văn Can làm Trực Đảng.

Đến tháng 11 năm 1994. Đồng chí  Hoàng Văn Thảo làm Trực Đảng từ tháng 12 năm 1994

Sau Đại hội, Ban chấp hành Đảng bộ tổ chức đợt sinh hoạt chính trị quán triệt và xây dựng chương trình hành động của Đảng bộ và phát động phong trào thi đua giành thành tích cao nhất trong sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong 2 năm (1994 - 1996).

Qua 2 năm (1994 - 1995) triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khóa XXIII, bằng những chủ trương biện pháp tổ chức thực hiện sát đúng, kịp thời, Đảng bộ và Nhân dân xã nhà đã gặt hái được những kết quả rất đáng mừng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động.

Về kinh tế:

Lĩnh vực sản xuất nông nghiệp: Đảng bộ tập trung lãnh đạo chính quyền thực hiện nghiêm chỉnh việc giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nhân dân theo Chỉ thị 07 của Tỉnh ủy, Quy định 117 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa và Hướng dẫn của Ủy ban nhân dân huyện Thạch Thành. Chủ động việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi, mùa vụ, phát triển ngành nghề. Tập trung cải tạo hệ thống mương máng, làm tốt thủy lợi mặt ruộng; làm tốt công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật, phòng trừ sâu bệnh… Do vậy, năng suất lúa tăng lên rõ rệt.

   Về chăn nuôi: Đàn trâu, bò, đàn lợn được duy trì và có bước phát triển. Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có sự chuyển biến tích cực, góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.

   Việc xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở như điện, đường, trường, trạm tiếp tục được đầu tư nâng cấp.

Nhìn chung: kinh tế phát triển và đang đi vào thế ổn định. Tuy vậy tốc độ phát triển còn chậm, năng suất, sản lượng thấp, chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế của địa phương.

Công tác văn hóa - xã hội có những chuyển biến tích cực. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ đã bám sát chủ trương của Đảng và Nhà nước, động viên nhân dân lao động sản xuất, phục vụ các ngày lễ lớn trong năm. Làm tốt công tác phổ biến tuyên truyền chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến các tầng lớp nhân dân trong xã. Cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng văn hóa được nhân dân hưởng ứng tích cực, từ đó giảm tệ nạn xã hội góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Phong trào thể dục thể thao trong các thôn xóm, trường học... thu hút đông đảo quần chúng tham gia luyện tập, thi đấu giao lưu.

   Chất lượng giáo dục trong các nhà trường ngày càng tốt hơn. Tỷ lệ học sinh lên lớp đạt 97%; tỷ lệ đậu tốt nghiệp đạt 87%. Số học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng nhiều hơn.

   Công tác y tế: thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia; mạng lưới cán bộ y tế được củng cố; Thường xuyên tuyên truyền vận động Nhân dân thực hiện tốt chương trình vệ sinh môi trường, nước sạch, nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh và công tác dân số kế hoạch hóa gia đình.

Thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh. Vào dịp lễ tết, cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể tổ chức tặng quà cho các đối tượng chính sách. Công tác xóa đói giảm nghèo có nhiều tiến bộ, các đoàn thể vận động hội viên gây quỹ để giúp nhau phát triển kinh tế, tổ chức học tập giúp nhau kinh nghiệm sản xuất.

Công tác quốc phòng - an ninh được cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm; quá trình tổ chức, triển khai thực hiện nhiệm vụ theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, quân sự, công an làm tham mưu. Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự; Phong trào xây dựng làng xã “vững mạnh toàn diện, an toàn làm chủ sẵn sàng chiến đấu” ngày một đi vào chiều sâu.

Phát huy vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Dân quân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng lực lượng Dân quân có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất, đạo đức tốt, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; thực sự là lực lượng nòng cốt trong phối hợp với các lực lượng xử lý tốt các tình huống xảy ra, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phòng chống thiên tai, dịch bệnh….

Hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân: Tháng 11 năm 1994, Đảng ủy xã chỉ đạo tổ chức thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 1994 - 1999 theo đúng nguyên tắc, đúng pháp luật, đúng tiêu chuẩn. Tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng nhân dân đã bầu đồng chí Đặng Quang Đắc làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, đồng chí Lê Văn Can làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Sau khi Hội đồng nhân dân bầu các chức danh đồng chí Lê Văn Can - trực Đảng làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân, khuyết chức danh trực Đảng. Đảng ủy thống nhất cơ cấu đồng chí Hoàng Văn Thảo - Bí thư Đoàn Thanh niên làm trực Đảng.

Sau khi đủ bộ máy lãnh đạo của xã, Hội đồng nhân dân tổ chức họp theo đúng quy định. Ủy ban nhân dân xã ban hành quy chế làm việc thể chế hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Hội đồng nhân dân để đưa vào thực hiện. Các nghị quyết của cấp trên được triển khai kịp thời đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, đồng thời chính quyền tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn phát triển sản xuất chăn nuôi, đầu tư kinh phí cho các đoàn thể hoạt động.

Mặt trận Tổ quốc luôn là cầu nối giữa Đảng và nhân dân. Trong các cuộc bầu cử, Mặt trận phát huy vai trò giới thiệu nhân sự, giúp cử tri hiểu rõ lý lịch, quá trình công tác của các ứng cử viên, góp phần đảm bảo bầu cử dân chủ, đúng luật. Mặt trận còn tích cực vận động nhân dân tham gia các phong trào “Xóa đói giảm nghèo”, “Đền ơn đáp nghĩa”, ủng hộ đồng bào các địa phương bị bão lụt...

Đoàn Thanh niên hăng hái hưởng ứng và đi đầu trong phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, tổ chức các đợt văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn ở địa phương. Hội Nông dân vận động hội viên tham gia phong trào lao động sản xuất, đẩy mạnh mô hình V-A-C phát triển kinh tế. Thông qua các phong trào, số lượng hội viên các tổ chức đoàn thể đều tăng. Đến năm 1995, Đoàn có 621 đoàn viên, thanh niên; Hội Phụ nữ có 513 hội viên; Hội Nông dân có 617 hội viên.

 Sau khi thành lập, Hội Cựu chiến binh xã đã ổn định về tổ chức và cán bộ, thường xuyên vận động hội viên thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ được giao, xây dựng hội, động viên các hội viên phát triển kinh tế, vận động thanh niên nhập ngũ, thăm hỏi các gia đình chính sách... Các thành viên của hội thường xuyên nêu cao phẩm chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần hoàn thành các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Đến năm 1995, Hội có 195 hội viên.

Như vậy, sau 10 năm (1986 - 1996) tiến hành đổi mới, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trên địa bàn Thạch Long có nhiều khởi sắc. Đảng bộ và nhân dân xã Thạch Long đã vượt qua nhiều khó khăn, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và thứ VII. Những thành tích đạt được mới chỉ là bước đầu nhưng đó là nguồn cổ vũ động viên Đảng bộ và nhân dân trong xã vững tin vào đường lối cách mạng của Đảng, phấn đấu xây dựng quê hương giàu đẹp, xứng đáng với truyền thống văn hóa của vùng đất này.

 

 


 

 

Chương VI

ĐẢNG BỘ XÃ THẠCH LONG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

(1996 - 2010)

 

I. ĐẢNG BỘ XÃ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG THÔN (1996 - 2000)

Thực hiện Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 09/3/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Đại hội Đảng bộ các cấp, năm 1996,Tháng 8 năm 1996 Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội lần thứ XXIV, nhiệm kỳ 1996 - 2000. Đại hội nghiêm túc đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXIII, đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ mới, trọng tâm là: giữ vững ổn định chính trị, tăng cường khối thống nhất, đoàn kết trong Đảng; tập trung phát triển kinh tế với cơ cấu nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ hợp lý, khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp để tăng thu nhập, giải quyết việc làm, khuyến khích phát triển dịch vụ, nhất là dịch vụ nông nghiệp và dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân địa phương; nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân.

 Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa mới gồm 9 đồng chí. Ban Chấp hành bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ, đồng chí Đặng Quang Đắc tiếp tục được bầu làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Lê Văn Can được bầu làm Phó Bí thư Đảng ủy chủ Tịch UBND, đồng chí Hoàng Văn Thảo - Ủy viên Ban Thường vụ, trực Đảng đến tháng 11năm 1998. Từ tháng 12 năm 1998 Đến năm 2000 Đồng chí Phạm văn Vũ trực đảng  

 Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp trong điều kiện mới, Đảng bộ tập trung lãnh đạo Nhân dân đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đưa xã Thạch Long trở thành đơn vị tiên tiến về nhiều mặt của huyện Thạch Thành.

Đảng ủy xác định sản xuất nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của xã và đã có nhiều biện pháp tổ chức chỉ đạo thực hiện như mạnh dạn thay đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi; tích cực áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi; mở rộng diện tích giống lúa lai, ngô lai; củng cố hệ thống khuyến nông; tăng cường công tác thủy lợi. Từ năm 1996, Đảng ủy rút kinh nghiệm trong chỉ đạo các khâu của sản xuất và đã giao quyền độc lập kinh doanh cho hộ, hộ tự chịu trách nhiệm làm nghĩa vụ thuế nông nghiệp, nộp thủy lợi phí với Nhà nước. Nhiều hộ còn đẩy mạnh trồng xen canh rau màu ngắn ngày trên đất 2 vụ lúa, đất ngô, đời sống Nhân dân ổn định. Sau trận lụt, Đảng bộ đã chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất cây màu vụ đông. Vì vậy, năng suất, sản lượng lương thực của xã tăng nhanh.

Chăn nuôi có bước phát triển khá, ngoài phương pháp truyền thống, xã khuyến khích các gia đình đầu tư vốn, kỹ thuật chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa như chương trình “Nạc hóa đàn lợn, Sind hóa đàn bò”, nuôi trồng thủy sản bước đầu cho sản phẩm có chất lượng cung ứng cho thị trường trong và ngoài xã.

Bên cạnh đó, một số ngành nghề thủ công, dịch vụ được khôi phục và phát triển mới như nghề mộc, nề, sửa chữa cơ khí nhỏ, kinh doanh hàng tạp hóa, dịch vụ vật tư nông nghiệp... thu hút nhiều lao động nhàn rỗi, phục vụ ngày một tốt hơn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của Nhân dân.

Công tác giáo dục của xã ngày càng được chú trọng, thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xã huy động các nguồn vốn đầu tư, xây dựng hệ thống trường lớp khang trang, đảm bảo đủ lớp cho các em học sinh được học tập. Kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi được giữ vững. Năm 1996, trường Phổ thông cơ sở Thạch Long chia tách thành 2 trường quy mô: Trường Trung học cơ sở gồm 18 lớp với 590 học sinh do thầy Nguyễn Hiếu làm Hiệu trưởng; Trường Tiểu học Thạch Long gồm 28 lớp, với 1.043 học sinh do thầy Lê Xuân Cảnh làm Hiệu trưởng. Đến năm 2000, Thạch Long đã hoàn thành phổ cập Trung học cơ sở.

Việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho Nhân dân có nhiều cố gắng. Một mặt, xã củng cố đội ngũ cán bộ y tế, đảm bảo 100% khu dân cư có cán bộ y tế thôn; đầu tư thêm trang thiết bị, thuốc men cho Trạm y tế; có hàng nghìn lượt người được khám và cấp thuốc điều trị tại cơ sở; mặt khác, chú trọng công tác tuyên truyền vệ sinh phòng dịch trong Nhân dân, đảm bảo 100% số cháu trong độ tuổi được tiêm đủ các mũi vacine phòng bệnh. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả khá nên đã góp phần hạ tỷ lệ phát triển dân số xuống còn 0,6% (năm 2000).

Hoạt động văn hóa, thông tin, thể thao phát triển mạnh. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Đảng ủy chỉ đạo các thôn xóm và xã xây dựng các thiết chế văn hóa như quy ước, hương ước về thực hiện nếp sống văn hóa mới, nhất là trong việc cưới, việc tang, mừng thọ. Đến năm 2000, toàn xã đã có 100% khu dân cư đăng ký xây dựng khu dân cư văn hóa, có 100% hộ gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hóa. Các hủ tục, hiện tượng mê tín dị đoan ngày càng giảm. Các phong trào giúp đỡ lẫn nhau được phát động rộng rãi trong Nhân dân. Các chính sách, chế độ ưu đãi của Nhà nước đều được thực hiện đầy đủ, đúng đối tượng. Công tác thông tin, tuyên truyền được tăng cường. Hệ thống truyền thanh của xã được duy tu, sửa chữa, đảm bảo chuyển tải kịp thời các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước tới Nhân dân địa phương.

Công tác quân sự được Đảng bộ, chính quyền đặc biệt quan tâm. Hằng năm, xã đều hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân. Lực lượng Dân quân xã được củng cố đảm bảo quân số theo quy định. Thực hiện tốt chế độ huấn luyện theo các phương án tác chiến, diễn tập phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn..,vì vậy 5 năm liền (1996 - 2000), xã Thạch Long luôn được huyện xếp loại là đơn vị có công tác quân sự địa phương đạt loại khá.

  Được sự chỉ đạo sát sao của Đảng ủy, lực lượng chức năng đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tích cực tham gia phong trào phòng chống tệ nạn xã hội, do đó, kịp thời đấu tranh, ngăn chặn các tệ nạn xã hội và giải quyết các vi phạm pháp luật trên địa bàn. Do đó, tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương luôn được giữ vững.

Công tác xây dựng Đảng thời kỳ này tiếp tục được Đảng bộ chú trọng, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên được quán triệt đầy đủ, sâu sắc hơn, qua đó góp phần nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ. Cũng trong thời gian này, Đảng bộ còn thực hiện tốt nội dung 4 dứt điểm trong công tác xây dựng Đảng do Huyện ủy Thạch Thành đề ra, năm 1997 là sinh hoạt Chi bộ đúng kỳ, thường xuyên đổi mới nội dung sinh hoạt, thiết thực, thu nộp Đảng phí đúng, đủ, kịp thời. Do đó, chất lượng hoạt động của cán bộ, đảng viên được nâng lên rõ rệt. Hằng năm, trên 90% đảng viên hoàn thành và hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó có 15% đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Công tác bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới được quan tâm chỉ đạo, từ năm 1996 đến năm 2000, Đảng bộ đã kết nạp được 22 quần chúng ưu tú vào Đảng. Đến năm 2000, Đảng bộ có 136 đảng viên.

Công tác kiểm tra Đảng được coi trọng, do đó đã góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực về phẩm chất, đạo đức lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, có biện pháp xử lý kịp thời đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng.

Năm 1999, cử tri trong xã hăng hái tham gia bỏ phiếu bầu cử Hội đồng Nhân dân 3 cấp. Hội đồng Nhân dân xã nhiệm kỳ 1999 - 2004 có 23 đại biểu trúng cử. Tại kỳ họp thứ nhất, Hội đồng Nhân dân bầu Ủy ban nhân dân xã gồm 5 ủy viên. Đồng chí Lê Văn Can được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, đồng chí Trịnh Xuân Soi được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, đồng chí Hoàng Văn Thảo được bầu làm Phó Chủ tịch UBND xã.

Cùng với việc kiện toàn, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Nhân dân từng bước đổi mới nội dung hoạt động. Mặt trận Tổ quốc xã ngoài việc tập hợp các lực lượng đoàn kết thống nhất về tư tưởng và hành động còn tổ chức hiệp thương giới thiệu đại biểu qua các cuộc bầu cử chính quyền và phối hợp các tổ chức đoàn thể vận động hội viên gây quỹ, giúp đỡ nhau tăng gia sản xuất. Nhờ đó, nhiều mô hình phát triển kinh tế giỏi xuất hiện. Mặt trận Tổ quốc xã đã phát động Nhân dân thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” và phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” được Nhân dân trong xã nhiệt tình hưởng ứng.

Đoàn Thanh niên đã phát động đoàn viên tham gia các phong trào lớn do tỉnh và Huyện đoàn phát động như “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”... Thanh niên là lực lượng đi đầu trong lao động sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, làm giao thông, thủy lợi và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã xây dựng được những mô hình phát triển kinh tế, đem lại thu nhập cao. Thông qua thực tiễn, nhiều đoàn viên ưu tú được bồi dưỡng và kết nạp vào Đảng.

Hội Phụ nữ xã với phong trào “Nuôi con khỏe, dạy con ngoan”, đã có những hoạt động với nội dung thiết thực, hình thức sinh hoạt phong phú để giúp đỡ nhau làm kinh tế. Hằng tháng, ban chấp hành các chi hội phụ nữ đều duy trì các buổi sinh hoạt đúng định kỳ. Các buổi sinh hoạt, chị em đã phổ biến cho nhau những kiến thức về gia đình, về sản xuất, giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, tư vấn về kế hoạch hóa gia đình.

Hội Nông dân với phong trào “Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới” đi vào hoạt động có nền nếp, bước đầu hướng dẫn nông dân phát triển kinh tế hộ, tổ chức cho Nông dân vay vốn ngân hàng để phát triển sản xuất, góp phần thực hiện xóa đói giảm nghèo ở địa phương.

Phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, Hội Cựu chiến binh tích cực tham gia các phong trào ở địa phương như phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Hội Cựu chiến binh là một trong những đoàn thể có phong trào vững mạnh nhiều năm liền.

Năm 1997 Đảng ủy thực hiện chỉ thị của cấp trên đã tập trung lãnh đạo thành lập Hội Người cao tuổi xã .Tháng 5 năm 1997, Đảng ủy quyết định thành lập Ban vận động thành lập hội, đồng chí Nguyễn Đức Đài được cử làm trưởng ban, đồng chí Lê Đức Thi làm Phó ban. Ngày 18 tháng 11 năm 1997, Đại hội Hội Người cao tuổi lần thứ I xã thành công, đồng chí Nguyễn Đức Đài được bầu làm Chủ tịch hội.

Sau 5 năm thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng bộ xã lãnh đạo Nhân dân đạt được nhiều kết quả quan trọng. Kinh tế có bước phát triển khá, cơ cấu dần chuyển dịch theo hướng chung của cả nước. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt. Những thành tựu đã đạt được và cả những mặt còn hạn chế trong quá trình lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXIV (nhiệm kỳ 1996 - 2000) đặt nền tảng quan trọng, đồng thời đem lại những kinh nghiệm quý để Đảng bộ tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội địa phương những năm đầu thế kỷ XXI.

II. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (2000 - 2005)

Bước sang năm 2000, toàn thế giới vui mừng đón chào thiên niên kỷ mới. Đảng bộ và nhân dân xã Thạch Long bước vào thực hiện nhiệm vụ giai đoạn này trong điều kiện xã hội có nhiều thuận lợi. Sau 15 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, khủng hoảng kinh tế ở nước ta bị đẩy lùi. Nền kinh tế đất nước không ngừng phát triển, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ta được nâng cao, quốc phòng - an ninh được giữ vững, chính trị xã hội ổn định, Đảng và hệ thống chính trị không ngừng củng cố, phát triển, trưởng thành và đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vị trí và uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, những tư tưởng hoài nghi, dao động về tiền đồ chủ nghĩa xã hội của một số cán bộ, đảng viên bị đẩy lùi, tạo niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Thành tựu đổi mới ở Thạch Long đã đạt được những kết quả thiết thực, là điều kiện quan trọng để Đảng bộ và nhân dân trong xã tiếp tục phấn đấu xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp.

Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW ngày 22/5/2000 của Bộ Chính trị và kế hoạch Đại hội Đảng bộ cơ sở của Huyện ủy Thạch Thành, Tháng 6 năm 2000, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2000 - 2005. Tham dự Đại hội có 133 đảng viên. Đại hội đã nghiêm túc thảo luận báo cáo chính trị, nêu rõ thành tích đạt được và tồn tại của công tác nhiệm kỳ qua. Từ đó, Đại hội rút ra những bài học kinh nghiêm trong công tác chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXIV. Đại hội thông qua báo cáo chính trị đánh giá về thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể nhiệm kỳ 1996 - 2000, đồng thời xây dựng phương hướng, mục tiêu của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 2000 - 2005.

Đại hội bầu 9 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Chấp hành bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ. Đồng chí Lê Văn Can được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Trịnh Xuân Soi làm Phó Bí thư chủ tịch UBND xã, đồng chí Bùi văn Ngọc được bầu làm Thường vụ trực Đảng. Đến tháng 4 năm 2004 bầu cử HĐND xã Đồng chí Trịnh xuân Soi không làm chủ Tịch UBND xã chuyển sang làm phó bí thư thường trực đồng chí Bùi văn Ngọc làm Chủ Tịch UBND xã.

Sau Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXIV, Đảng bộ và nhân xã nhà được tiếp nhận nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đặc biệt là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX diễn ra vào tháng 4 năm 2001. Đại hội Đảng lần thứ IX đã tổng kết đánh giá chặng đường lịch sử vẻ vang trong 71 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc, 15 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, 5 năm tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó đi đến phát triển hoàn thiện đường lối đổi mới, định ra chiến lược phát triển đất nước trong 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, đề ra những phương hướng, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, Đại hội IX đã chỉ rõ mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN có sự điều hành của Nhà nước.

Có thể nói ánh sáng Nghị quyết của Đại hội cấp trên đã soi đường, chỉ lối cho Đảng bộ xã nhà tiếp tục lãnh đạo nhân dân đưa sự nghiệp CNH - HĐH vào chiều sâu.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hộ Đảng bộ xã lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2000 -2005, Đảng bộ đã đề ra nhiều giải pháp sắc bén tổ chức, chỉ đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị:

 Về phát triển kinh tế:

Với tinh thần tích cực tận dụng, tranh thủ sự hỗ trợ và tận dụng các nguồn lực, địa phương đã tích cực chuyển dịch cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, đưa sản phẩm nông nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu cơ bản của người dân mà còn đủ sức cạnh tranh khi vào thị trường. Tùy vào từng đặc điểm thổ nhưỡng, điều kiện thủy lợi của từng vùng, người dân tiến hành canh tác các loại giống cây trồng phù hợp và đẩy mạnh áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào sản xuất. Tính đến năm 2005, diện tích trồng cấy lúa là 768ha, năng suất đạt 50 tạ/ha, sản lượng đạt 3840 tấn; diện tích trồng ngô là 100ha, năng suất đạt 45tạ/ha, sản lượng đạt 450 tấn; diện tích trồng cây mía là 21ha, năng suất đạt 60 tấn/ha, sản lượng đạt 1.260 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 809kg/người/năm, bình quân thu nhập đạt 13 triệu đồng/người/ năm.

Cùng với trồng trọt, chăn nuôi dần trở thành ngành chính trong cơ cấu ngành kinh tế. Người dân đã mạnh dạn đầu tư, mở rộng chuồng trại, tăng số lượng đàn vật nuôi, chú trọng chất lượng giống và quan tâm đến đầu ra. Và bắt đầu phát triển chăn nuôi theo hướng gia trại, góp phần định hướng phát triển kinh tế cho người dân trong xã.

- Dịch vụ thương mại đã có bước phát triển đáng kể, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của Nhân dân. Hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp đã có nhiều đổi mới, đã làm tốt các khâu dịch vụ, đáp ứng phần lớn nhu cầu phục vụ kinh tế hộ phát triển.

Đảng bộ xã chỉ đạo phải khai thác rừng đi liền với bảo vệ rừng, tập trung trồng rừng theo các dự án và huy động toàn dân nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, ý thức đối với cộng đồng trong việc bảo vệ, phát triển diện tích lâm nghiệp. Trong 5 năm (2000 - 2005), nhờ sự chỉ đạo tích cực của Đảng ủy và sự tham gia nhiệt tình của nhân dân, toàn xã đã trồng được 24ha rừng, góp phần nâng cao độ che phủ của rừng, đồng thời đẩy mạnh diện tích vườn đồi, rừng trồng trong Nhân dân. Trồng rừng dần đem lại hiệu quả và là nguồn thu nhập chính của nhiều gia đình trên địa bàn xã.

Đảng bộ xã đã quan tâm, sử dụng nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước và đóng góp của Nhân dân để tăng cường đầu tư, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trong đó tập trung vào các công trình cứng hóa kênh mương, đường bê tông, trường học, trạm y tế, điện lưới.., nhằm tạo nền tảng cơ bản để đẩy mạnh phát triển kinh tế. Những công trình cơ sở hạ tầng được xây dựng đã làm thay đổi diện mạo nông thôn.

- Công tác xây dựng kế hoạch, quản lý thu, chi ngân sách xã đã có bước chuyển biến tốt; thực hiện theo đúng kế hoạch, chỉ tiêu giao. Các nguồn thu đều đảm bảo thu đúng luật, mức thu bình quân đạt 751 triệu đồng, bình quân thu nhập đầu người đạt 13 triệu đồng/ người, ưu tiên chi ngân sách cho hoạt động của bộ máy Nhà nước và các công trình phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đảm bảo công khai, minh bạch.

Công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân được Đảng bộ quan tâm. Trong 5 năm qua Đảng bộ xã đã sử dụng nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước và đóng góp của Nhân dân để tăng cường đầu tư, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trong đó tập trung vào các công trình cứng hóa kênh mương, đường bê tông, trường học, trạm y tế, điện lưới.., nhằm tạo nền tảng cơ bản để đẩy mạnh phát triển kinh tế. Những công trình cơ sở hạ tầng được xây dựng đã làm thay đổi diện mạo nông thôn.

Về công tác văn hóa - xã hội, giáo dục, được Đảng bộ, nhân dân quan tâm chăm lo phát triển, chất lượng dạy và học được duy trì và phát huy đạt hiệu quả tốt. Hằng năm, học sinh lên lớp, học sinh tốt nghiệp đạt tỷ lệ khá cao, học sinh giỏi các cấp ngày một tăng, học sinh thi vào Trường THPT Thạch Thành là 154 học sinh đạt tỷ lệ 90%, số giáo viên giỏi của các trường đều tăng theo năm. Học sinh của xã thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng hằng năm tăng. Các nhà trường đã giữ vững danh hiệu trường tiên tiến cấp huyện.

Hoạt động văn hóa, xã hội có nhiều đổi mới cả về nội dung và hình thức tổ chức. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, xã xây dựng một số thiết chế văn hóa mới như hương ước, quy ước và được người dân hưởng ứng, chấp hành một cách nghiêm chỉnh, nhất là việc cưới, việc tang và những ngày lễ hội. Trong giai đoạn này, địa phương đầu tư, nâng cấp hệ thống truyền thanh, đảm bảo truyền tải tốt những thông tin cần thiết đến tất cả các khu dân cư trên địa bàn. Ngoài việc thường xuyên thông báo những chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật mới của Nhà nước đến với Nhân dân, cán bộ văn hóa xã còn trực tiếp biên tập và đọc trên sóng phát thanh của xã nhiều tin, bài có nội dung phong phú, kể cả nêu gương người tốt, việc tốt, thông báo những diễn biến của thời tiết để bà con nông dân có kế hoạch điều chỉnh sản xuất cho phù hợp.

Thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, Đảng bộ đã chỉ đạo các chi bộ đẩy mạnh và không ngừng đổi mới các hoạt động xây dựng làng văn hóa, phong trào văn hóa, văn nghệ ở cụm dân cư, đồng thời sớm hoàn thành xây dựng nhà văn hóa, danh hiệu gia đình văn hóa, làng văn hóa. Năm 2005, toàn xã có 901 hộ đạt 74% hộ gia đình đạt gia đình văn hóa. Nhiều đơn vị đã thực hiện tốt nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang nên các hủ tục lạc hậu đã giảm rõ rệt.

Chính sách xã hội địa phương thực hiện thường xuyên và coi là một công tác không thể thiếu trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế. Các chế độ chính sách luôn đảm bảo theo đúng quy định Nhà nước, chi trả kịp thời, đúng đối tượng, đồng thời Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng còn thường xuyên quan tâm đến các hoạt động như xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ các gia đình có người già nèo đơn…

Cải thiện mức sống của người dân là một trong những mục tiêu quan trọng, được ưu tiên hàng đầu trong các chương trình, nhiệm vụ kinh tế địa phương. Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy xã đã tạo mọi điều kiện bằng các biện pháp, dự án hỗ trợ người nghèo, người già neo đơn, giải quyết việc làm cho người dân, nhất là lực lượng đang trong độ tuổi lao động. Các tổ chức đoàn thể như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ đứng ra tín chấp vay vốn ngân hàng để hội viên có vốn đầu tư, phát triển kinh tế. Nhiều gia đình đã mạnh dạn mở rộng sản xuất, kinh doanh, khai thác tiềm năng thế mạnh, xây dựng mô hình kinh tế kết hợp vườn, ao, chuồng…

Bước vào thời kỳ thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Công tác y tế địa phương đã có nhiều cố gắng trong việc khám, chữa bệnh cho người dân. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị của Trạm y tế được bổ sung thêm giường bệnh, thuốc điều trị, cán bộ y tế tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và đạt trình độ từ trung cấp trở lên. Hằng năm, Trạm y tế đã khám và điều trị cho hàng nghìn lượt người bệnh, chuyển lên tuyến trên kịp thời các trường hợp bệnh nặng. Người dân địa phương có ý thức về phòng, chống bệnh bằng việc thực hiện các biện pháp tích cực như: Thực hiện nếp sống vệ sinh, khoa học, môi trường sống sạch sẽ, gọn gàng..,công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình đã triển khai rộng rãi với mạng lưới cộng tác viên đông đảo, được duy trì hoạt động đều đặn. Hằng năm, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên giảm và chất lượng dân số ngày càng tăng lên, tuy nhiên, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng còn cao với 23%.

Công tác quốc phòng: luôn được địa phương chú trọng, duy trì việc xây dựng các phương án huấn luyện, củng cố lực lượng dân quân tự vệ theo đúng quy định. Hằng năm, địa phương hoàn thành chỉ tiêu giao quân, đúng số lượng và đảm bảo chất lượng. Lực lượng công an xã được tăng cường, tích cực đấu tranh, ngăn ngừa kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, các tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn, đồng thời giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu kiện, tránh để kéo dài. Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật tới Nhân dân được thực hiện và đi vào nền nếp thông qua các chương trình, bài giảng ở nhà trường, bản tin truyền thanh, băng rôn, khẩu hiệu…

 Hoạt động của HĐND và UBND xã:

Trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ của mình, nhiệm kỳ qua HĐND xã đã xem xét tình hình thực tế tại địa phương đề ra các nghị quyết phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội. Những nghị quyết đó đã hợp với lòng dân, đúng pháp luật nên khi triển khai thực hiện đạt hiệu quả tốt. Hoạt động của HĐND và đại biểu HĐND đã phát huy tốt vai trò giám sát, thực hiện tốt vai trò tiếp dân; phối hợp với các ngành có liên quan đôn đốc giải quyết kịp thời đơn thư của nhân dân, tạo được lòng tin của nhân dân vào chế độ.

Thực hiện chủ trương của cấp trên về bầu cử HĐND xã nhiệm kỳ (2004 - 2009). Ngày 25 tháng 4 năm 2004, 99% cử tri toàn xã đã tham gia bầu cử HĐND xã khóa  3.756 cử tri toàn xã đã bỏ phiếu bầu ra 25 đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2004 - 2009. Tại kỳ họp thứ nhất, HĐND xã đã bầu ông Lê Văn Can giữ chức Chủ tịch HĐND xã; ông Bùi Văn Ngọc giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; ông Vũ Vinh Quang; ông Lê Trọng Đại giữ chức Phó Chủ tịch UBND xã; ông Bùi Huy Phong giữ chức Phó Chủ tịch HĐND xã.

  Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã đã từng bước đổi mới, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân, ban hành nghị quyết phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, đúng pháp luật nên khi triển khai thực hiện đạt hiệu quả tốt. Hoạt động của HĐND và đại biểu HĐND đã phát huy tốt vai trò giám sát, thực hiện tốt vai trò tiếp dân; phối hợp với các ngành có liên quan đôn đốc giải quyết kịp thời đơn thư của nhân dân, tạo được lòng tin của nhân dân vào chế độ. tạo đà cho sự chuyển biến tích cực trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân đã đổi mới nội dung trong các kỳ họp. Trước, trong và sau các kỳ họp Hội đồng nhân dân, xã đều tổ chức tiếp xúc cử tri. Các kỳ họp Hội đồng nhân dân được tổ chức đúng luật, chuẩn bị tốt về nội dung, bàn bạc thảo luận dân chủ, quyết định về những vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của xã. Đại biểu Hội đồng nhân dân đã thể hiện trách nhiệm trước cử tri, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.

Nhiệm kỳ qua, Ủy ban nhân dân xã đã cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng ủy và Hội đồng nhân dân vào đời sống thông qua các kế hoạch cụ thể. Đồng thời, UBND xã đã tổ chức, triển khai điều hành, thực hiện nghị quyết theo hướng dân chủ, công khai, sâu sát cơ sở, sát công việc, làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, phát huy vai trò của cán bộ tham mưu, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng. Bộ phận hành chính bố trí cán bộ thường trực, giải quyết nhanh và kịp thời các thủ tục hành chính cho người dân tại địa phương. Nhiều năm liền, hoạt động của chính quyền xã được đánh giá cao.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể: Nhiệm kỳ qua, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã từng bước đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức hội vững mạnh, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực lao động sản xuất, kinh doanh làm giàu cho gia đình, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể hoạt động có hiệu quả, tuyên truyền, vận động Nhân dân tích cực tham gia các phong trào như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Mặt trận Tổ quốc xã phối hợp với các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và đẩy mạnh phong trào: Đền ơn đáp nghĩa, vận động nhân dân xây dựng Quỹ nghĩa tình, ủng hộ đồng bào miền Trung bị lũ lụt, ủng hộ nhân dân Cu Ba anh em...nhân rộng phong trào “Ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo” trong các thôn, xóm. Mặt trận không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vận động Nhân dân thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị địa phương.

Đoàn Thanh niên tăng cường giáo dục chính trị, truyền thống cho đoàn viên, thanh niên, đổi mới nội dung và phương thức sinh hoạt với nhiều hình thức phong phú. Thực hiện tốt phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, nhiều đoàn viên, thanh niên mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, hăng hái lên đường nhập ngũ. Lục lượng thanh niên luôn đi đầu trong các phong trào áp dụng và chuyển giao khoa học kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất tại địa phương. Tổ chức đoàn luôn tuyên truyền, giáo dục đaọ đức, lối sống lành mạnh tro thanh niên, vận động thanh niên thực hiện nếp sống văn minh, tiết kiệm trong việc cưới , xây dựng đời sống văn hóa trong thanh thiếu niên. Bên cạnh đó, Đoàn phối hợp với các nhà trường chăm lo giáo dục thiếu niên, nhi đồng và giới thiệu các đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp vào Đảng. Đến năm 2005, Đoàn có 560 đoàn viên, thanh niên.

Hội Liên hiệp Phụ nữ tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đưa phong trào vào các thôn, xóm, thực hiện sáu chương trình công tác trọng tâm của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam và các phong trào: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước”. Hội vận động hội viên tích cực gia nuôi con khỏe, dạy con ngoan, giúp nhau làm kinh tế, gây quỹ giúp đỡ các hội viên ốm đau, bệnh tật. Hội đã đứng ra tín chấp với Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho hội viên vay vốn sản xuất. Công tác phát triển hội viên, củng cố chi hội được thường xuyên coi trọng. Đến năm 2005, Hội có 864 hội viên.

Hội Nông tích cực vận động hội viên tham gia phong trào “Làm giàu chính đáng” và “Sản xuất, kinh doanh giỏi”. Hội chú trọng phát triển mô hình kinh tế hộ gia đình để xóa đói, giảm nghèo, đi đầu trong phong trào thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, kết hợp chặt chẽ với hợp tác xã tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật. Hội Nông dân tạo điều kiện cho hội viên vay vốn, tín chấp vật tư, phân bón, giống cây trồng, vật nuôi trả chậm để khuyến khích hội viên thực hiện các dự án như chăn nuôi trâu, bò, trồng cỏ và phối hợp mở các lớp chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, đến năm 2005, Hội có 765 hội viên.

Hội Cựu chiến binh có nhiều chương trình giúp đỡ các gia đình Cựu chiến binh phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giáo dục truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” cho các tầng lớp Thanh thiếu niên, tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, đến năm 2005, Hội có 230 hội viên.

Nhiệm kỳ 2001 - 2005, các đồng chí được bầu giữ chức trưởng các đoàn thể: Mặt trận Tổ quốc xã là ông Phạm Hồng Phú; Đoàn Thanh niên cộng sản là đồng chíTừ Văn Cương; Hội Liên hiệp Phụ nữ Chủ tịch là bà Lê Thị Đương; Hội Nông dân là đồng chí Từ Văn Quyên; Hội Cựu chiến binh đồng chí Mai Hồng Cẩm, Hội Người cao tuổi cụ Nguyễn Đức Đài.

Cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội khác, Hội Người Cao tuổi, Hội Chữ thập đỏ, Hội Khuyến học, Hội Người tàn tật của xã cũng có nhiều hoạt động thiết thực, đóng góp một phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa phương.

Về công tác xây dựng Đảng:

Nhiệm kỳ qua, Đảng bộ xã luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, coi trọng công tác xây dựng Đảng là nhân tố then chốt. Đảng bộ đã chú trọng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng bộ đã tổ chức quán triệt thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước đến các chi bộ, đảng viên. Bồi dưỡng và nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng, khắc phục vi phạm nguyên tắc tổ chức. Đã tổ chức học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho toàn Đảng bộ. Đa số đảng viên đều có lập trường chính trị vững vàng, kiên định đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng, sống trung thực, giản dị, tích cực đấu tranh và tự phê bình, chống các biểu hiện tiêu cực trong Đảng bộ.

Đảng bộ luôn quan tâm đến công tác tổ chức, tập trung chỉ đạo xây dựng chi bộ, Đảng bộ đạt tiêu chuẩn đơn vị trong sạch vững mạnh.

Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy phổ biến các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và Huyện ủy Thạch Thành đến tất cả đảng viên trong Đảng bộ. Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chú trọng, để nâng cao chất lượng cán bộ và đảng viên, Đảng bộ xã đã cử cán bộ đi học các lớp trung sơ cấp lý luận chính trị và các lớp chuyên ngành. Đa số các đồng chí được cử đi học đã nâng cao trình độ, nhận thức chính trị và nâng cao trình độ chuyên môn, vận dụng có hiệu quả vào công tác thực tiễn tại địa phương. Bên cạnh đó, Đảng bộ chú ý đến công tác phát triển Đảng, bồi dưỡng đảng viên mới, sắp xếp, kiện toàn bộ máy lãnh đạo trong Đảng. Từ năm 2000 - 2005, Đảng bộ đã kết nạp được 38 đảng viên (trong đó số đảng viên cao tuổi qua đời và số đảng viên chuyển công tác là 30 đồng chí) do đó đến năm 2005 số đảng viên trong Đảng bộ là 144 đồng chí, sinh hoạt tại 10 chi bộ.

Công tác kiểm tra Đảng chú trọng công tác kiểm tra thực hiện chế độ nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng, kiểm tra đảng viên thực hiện quy định 19 “về những điều đảng viên không được làm”, kiểm tra thực hành tiết kiệm chống tham nhũng, lãng phí. 5 năm qua, không có tổ chức Đảng vi phạm bị xử lý kỷ luật.

Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ủy duy trì, việc đánh giá, phân loại đảng viên, chi bộ Đảng hằng năm thực hiện nghiêm túc, khách quan. Những đảng viên thiếu trách nhiệm, vi phạm điều lệ Đảng đều bị khiển trách trước tập thể và xử lý theo đúng quy định.

Phát huy truyền thống yêu quê hương, với bản chất cần cù, sáng tạo, được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ và chính quyền xã, cán bộ, đảng viên và nhân dân Thạch Long đoàn kết một lòng khắc phục khó khăn, thực hiện tốt các chỉ tiêu do Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXV đề ra. Sự nghiệp đổi mới sau 5 năm đầu thế kỷ XXI (2000 - 2005) thu được những kết quả quan trọng như: chính trị ổn định, kinh tế phát triển, cơ sở vật chất phục vụ cho đời sống Nhân dân ngày càng được cải thiện. Ghi nhận những cố gắng và những thành quả mả Đảng bộ và nhân dân xã Thạch Long đã đạt được, ngày 05/11/2000, Chủ tịch nước ra Quyết định số 567/QĐ/CT về việc phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân trong thời kỳ chống Mỹ cho Đảng bộ và Nhân dân xã Thạch Long. Đây là niềm vinh dự và tự hào đồng thời khẳng định tính đúng đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, tạo tiền đề cho xã Thạch Long phát triển trong giai đoạn tiếp theo.

III. ĐẢNG BỘ XÃ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2005 - 2010)

Đảng bộ và Nhân dân xã Thạch Long bước vào thực hiện kế hoạch giai đoạn này có nhiều thuận lợi: gần 20 năm tiến hành đổi mới đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của quê hương, đời sống nhân dân được nâng cao, nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Đây là những điều kiện quan trọng để Đảng bộ và Nhân dân xã tiếp tục xây dựng quê hương giàu mạnh.

Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 06/12/2004 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Thạch Thành, tháng 6 năm 2005, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2005 - 2010.

Đại hội làm việc với tinh thần khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm, dân chủ, đoàn kết và đổi mới.

Đại hội đã đi sâu phân tích đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ giai đoạn 200 - 2005 và nhận định: Về cơ bản xã đã thực hiện được nhiệm vụ chính trị của địa phương đặt ra tại Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2000 - 2005. Kinh tế tăng trưởng khá, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân trong xã tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đa cây, đa con, đa ngành nghề; dịch vụ thương mại phát triển theo hướng tích cực; thu nhập bình quân đầu người tăng lên. Lĩnh vực văn hóa xã hội từng bước ổn định và phát triển, quốc phòng an ninh được giữ vững, tổ chức Đảng ngày càng vững mạnh.

Đại hội thảo luận và thông qua báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp vào dự thảo các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVI, Đại hội Đảng bộ huyện Thạch Thành lần thứ XXII, thể hiện ý chí, trí tuệ của Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân trong xã .

Đại hội đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, khuyết điểm trong nhiệm kỳ qua, đề ra phương hướng, mục tiêu kinh tế, xã hội giai đoạn 2005 - 2010.

Đại hội bầu 11 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa mới. Ban Chấp hành bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ. Đồng chí Lê Văn Can được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Lê Xuân Thủy làm thường vụ trực Đảng[1], đồng chí Bùi Văn Ngọc làm Phó Bí thư Đảng ủy- CT UBND xã, đến tháng 3 năm 2008 đồng chí Bùi Công Định làm trực đảng thay đồng chí Lê Xuân Thủy.

Sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ đã phát động phong trào thi đua yêu nước trong Đảng bộ và nhân dân, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2006, chào mừng Đại hội Đảng bộ huyện Thạch Thành lần thứ XXII, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVI, Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng.

Đảng bộ và nhân dân Thạch Long bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng xã lần thứ XXVI trong điều kiện tình hình chính trị - xã hội ổn định, cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật được tăng cường và phát triển, những chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ngày càng hoàn thiện và đồng bộ là động lực thúc đẩy kinh tế của xã phát triển.

Năm năm qua, tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân trong xã đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, phát huy tiềm năng, lợi thế, vượt qua khó khăn thách thức, đạt được những thành tích quan trọng, hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2005 - 2010 đề ra, kinh tế phát triển với tốc độ khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và năng lực sản xuất tăng nhanh, khắc phục một bước tình trạng kinh tế chậm phát triển. Văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân trong xã từng bước được cải thiện. Chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng có nhiều chuyển biến tiến bộ.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVI, dưới sự lãnh chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, Đảng ủy xã Thạch Long đã đề ra nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế. Tuy vậy, trong quá trình tổ chức lãnh đạo thực hiện cũng gặp không ít những khó khăn do thời tiết diễn biến phức tạp, nắng hạn kéo dài, thiếu nguồn nước để phục vụ sản xuất, dịch bệnh phát sinh phá hoại đến cây trồng, vật nuôi, giá hàng hóa tăng cao, sự tác động của suy thoái nền kinh tế thế giới, tình hình biển Đông, giá cả nguyên vật liệu tăng cao và thị trường tiêu thụ không ổn định, đã làm ảnh hưởng đến tâm lý, sự phát triển kinh tế của địa phương. Tuy nhiên, được sự chỉ đạo sát sao của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Thạch Thành các ngành chức năng của huyện cùng với sự đồng thuận của cấp ủy chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong xã, đã khắc phục những khó khăn, thực hiện tốt các mục tiêu nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVI đã đề ra.

Về phát triển kinh tế:

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XXVI đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, tăng diện tích lúa mùa sớm, khuyến khích người dân trồng các loại giống mới có giá trị kinh tế cao, tăng cường áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi, phòng chống dịch bệnh cho cây trồng. Đảng bộ huy động nguồn lực và sự đóng góp của quần chúng nhân dân để tu sửa, xây dựng mới thêm các công trình kênh mương dẫn nước, một số khu vực tiến hành quy hoạch đất ruộng, đảm bảo thuận lợi cho sản xuất. Ngoài ra, xã cũng tiến hành cung ứng đầy đủ giống cây trồng các loại, phối hợp với phòng nông nghiệp, Trạm Khuyến nông tăng cường công tác khuyến nông, tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nhân dân, thường xuyên dự báo kịp thời sâu bệnh. Nhờ vậy, đến năm 2010, diện tích cấy lúa của xã là 785ha, diện tích cây ngô là 81ha. Sản lượng lương thực giai đoạn 2005 - 2010 bình quân tăng 3%/năm, lương thực bình quân đầu người đạt 838kg/năm. Bên cạnh đó, Đảng ủy chỉ đạo người dân tăng năng suất, sản lượng cây mía. Trong những năm 2005 - 2010, diện tích mía nguyên liệu hằng năm đạt 23ha, sản lượng đạt 60 tấn (tăng 120 tấn so với năm 2005)[2].

Đảng bộ và chính quyền địa phương đẩy mạnh trồng rừng, khai thác nguồn lực từ rừng. Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy xã triển khai trồng rừng theo dự án 661, thực hiện tốt công tác chăm sóc bảo vệ rừng trồng. Bên cạnh đó, Đảng bộ, chính quyền thực hiện tốt công tác giao đất, giao rừng cho nhân dân đồng thời thường xuyên tổ chức tuyên truyền, vận động cho nhân dân làm tốt công tác bảo vệ rừng tự nhiên, rừng phòng hộ.

Trong công tác chăn nuôi, Dảng bộ thường xuyên quan tâm tuyên truyền định hướng đầu tư phát triển chăn nuôi theo mô hình trang trại, gia trại. Trong chăn nuôi, ngoài việc chăm sóc đàn vật nuôi, nguồn thức ăn đảm bảo, người dân còn tiến hành tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm, tiêu độc, khử trùng chuồng trại, nhờ vậy, trên địa bàn không xảy ra các dịch bệnh lớn. Năm 2010, tổng đàn trâu, bò là 1207con, đàn lợn là 3360 con, đàn gia cầm bình quân 75 nghìn con. Bên cạnh đó, nhân dân địa phương thực hiện chương trình phát triển mô hình cá lúa của huyện, chuyển đổi 24ha diện tích đất vùng trũng sang nuôi trồng thủy sản kết hợp cấy lúa.

Xác định xây dựng cơ sở hạ tầng là một trong những nhiệm vụ quan trọng, là điều kiện thúc đẩy kinh tế địa phương đi lên, làm thay đổi bộ mặt nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì vậy, trong 5 năm, xã đã dành phần lớn kinh phí từ ngân sách địa phương, sự hỗ trợ của Nhà nước và sự đóng góp của nhân dân vào phát triển kiết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong 5 năm, địa phương đã tập trung tăng cường, đầu tư xây dựng với 12 phòng học kiên cố, xây dựng Trạm y tế và trang thiết bị phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân, nâng cấp các tuyến đường giao thông liên thôn, đầu tư xây dựng 4km đường nhựa.

Công tác thu chi ngân sách luôn được Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã quan tâm chỉ đạo, thực hiện kế hoạch thu ngân sách theo chỉ tiêu Nhà nước giao, tập trung rà soát các nguồn thu trên địa bàn, tăng cường công tác kiểm tra giám sát. Hằng năm, thu ngân sách luôn đảm bảo vượt chỉ tiêu. Việc chi ngân sách luôn đảm bảo chi đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả cho các hoạt động thường xuyên tại địa phương, hạch toán chi hợp lý trong xây dựng cơ sở hạ tầng.

Về văn hóa xã hội:

Phong trào văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao phát triển mạnh. Đảng ủy chỉ đạo đầu tư nâng cấp hệ thống đài truyền thanh, tăng cường thời lượng thu và phát sóng. Phối hợp với Ban Tuyên giáo xã bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, thông tin tuyên truyền đường lối của Đảng, chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước và các sự kiện chính trị trọng đại; tuyên truyền nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thể thao góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân. Trong những năm 2005 - 2010, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” được đông đảo nhân dân hưởng ứng và thực hiện tốt, nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội có tiến bộ, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Năm 2010, toàn xã có 73% hộ đạt gia đình văn hóa, 04 làng được công nhận làng văn hóa cấp huyện. Nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang ma, lễ hội được xây dựng và duy trì, thực hiện theo quy ước văn hóa của địa phương tiết kiệm, lành mạnh, góp phần tạo nên diện mạo văn hóa mới, vừa mang bản sắc địa phương, vừa tiếp thu những yếu tố văn hóa thời đại.

    Trong giáo dục, Đảng ủy xã chỉ đạo các nhà trường tập trung vào công tác thi đua “Dạy tốt - Học tốt”, thực hiện việc kiện toàn, chuẩn hóa, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn các cấp được nâng lên. Đảng ủy, chính quyền luôn quan tâm và làm tốt công tác vận động học sinh trong độ tuổi đến trường ở các cấp học đạt tỷ lệ cao. Phong trào xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” có tác động tích cực đến việc xây dựng môi trường sư phạm, giáo dục ý thức, kỹ năng sống cho học sinh, thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục. Phong trào đã được triển khai rộng khắp ở tất cả các cơ sở giáo dục từ mầm non đến phổ thông cơ sở trong xã và từng bước đi vào chiều sâu. Đồng thời, các trường trên địa bàn xã cũng thực hiện tốt cuộc vận động "Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục" (thường gọi là cuộc vận động "Hai không"). Đây là khâu đột phá trong năm học 2006 - 2007, nhằm lập lại trật tự, kỷ cương trong dạy và học, làm tiền đề triển khai những giải pháp khác nhằm khắc phục các yếu kém trong ngành, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Các năm học 2007 -2008; 2008 -2009 và 2009 -2010, các trường thực hiện Chỉ thị 33 của Chính phủ về chống bệnh thành tích trong giáo dục, tỷ lệ học sinh ngồi nhầm lớp giảm dần, chất lượng giáo dục của các trường được nâng lên. Tỷ lệ lên lớp và tốt nghiệp hằng năm đều đạt từ 99,5%. Tỷ lệ học sinh giỏi, giáo viên giỏi, học sinh đỗ tốt nghiệp ở các cấp học năm sau đều cao hơn năm trước.

 Công tác y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình và trẻ em đạt kết quả tốt. Việc chăm sóc sức khỏe ban đầu và phòng chống dịch bệnh cho nhân dân được quan tâm, thực hiện tốt, nhờ vậy nhiều năm liền không có dịch bệnh xảy ra trên địa bàn. Chất lượng khám và chữa bệnh được nâng lên, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 26,79%. Trạm y tế phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện kế hoạch hóa gia đình, tuyên truyền về kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản cho lứa tuổi vị thành niên. Nhờ vậy, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của xã duy trì bình quân 0,62%. Bên cạnh đó, Trạm y tế xã tăng cường tuyên truyền công tác vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh môi trường đảm bảo xanh, sạch, đẹp. không để dịch bệnh xảy ra trên địa bàn. Với những nỗ lực không ngừng, năm 2009, xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.

Đảng bộ thực hiện tốt các chính sách xã hội, lãnh đạo các đoàn thể tham gia phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, thường xuyên quan tâm chăm sóc gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với cách mạng; vận động nhân dân hưởng ứng các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát động; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ hộ nghèo như chính sách miễn giảm các khoản đóng góp, miễn giảm học phí cho con em hộ nghèo. Xã tiến hành chi trả lương trợ cấp hằng tháng cho cán bộ hưu trí và cán bộ hưởng chính sách kịp thời. Hằng năm, Đảng bộ và chính quyền chỉ đạo tổ chức tốt việc vận động xây dựng các loại quỹ như quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ vì người nghèo, quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ trẻ em. Nhân dịp tết Nguyên đán và ngày Thương binh liệt sĩ, địa phương đã tổ chức thăm hỏi các gia đình chính sách. Trong những năm 2005 - 2010, xã đã thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo. Năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 8,4% Cùng với đó, Đảng bộ và chính quyền còn quan tâm giải quyết việc làm cho người lao động, giúp nhân dân ổn định cuộc sống.


Công tác an ninh -quốc phòng

Công tác an ninh - quốc phòng ở địa phương luôn được các cấp ủy đảng quan tâm lãnh đạo, Đảng ủy luôn xác định nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong giai đoạn cách mạng hiện nay là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Xã đội tập trung xây dựng lực lượng dân quân lực lượng dự bị động viên. Ban Chỉ huy quân sự xã kết hợp với các đồng chí thôn trưởng, đội trưởng xuống từng thôn rà soát lực lượng trong độ tuổi dân quân và tổ chức biên chế theo các thôn để tiện việc quản lý, điều động lực lượng khi có tình huống xảy ra. Trong giai đoạn 2005 - 2010, Đảng ủy đã thể chế hóa chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ xã về lĩnh vực quân sự địa phương kết hợp chặt chẽ giữa đảm bảo quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ý thức quốc phòng toàn dân. Hằng năm, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân triển khai thực hiện hiệu quả kế hoạch phòng thủ khu vực, kế hoạch trực ban trực chiến, huấn luyện theo đúng sự chỉ đạo của cấp trên. Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Thạch Long, Ban Chỉ huy quân sự thực hiện công tác gọi công dân nhập ngũ, đảm bảo 100% kế hoạch đề ra. Lực lượng quân sự của xã thực hiện luyện tập và diễn tập theo cụm nâng cao trình độ và tinh thần sẵn sàng chiến đấu.

Đảng ủy cũng chỉ đạo công an xã thực hiện tốt công tác giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được đẩy mạnh. Công tác giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật được tiến hành thường xuyên, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thực hiện nghiêm túc, kịp thời. Tình hình an ninh nông thôn cơ bản ổn định.

Công tác xây dựng Đảng:

  Đi đôi với nhiệm vụ đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, Đảng bộ đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đảng ủy luôn coi trọng và chăm lo công tác giáo dục chính trị tư tưởng, quán triệt, triển khai tới đảng viên các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, Huyện ủy. Vận dụng vào tình hình đặc điểm địa phương, cấp ủy xây dựng các chương trình hành động, xác định mục tiêu và giải pháp cụ thể để tổ chức thực hiện. Nhân các ngày kỷ niệm lớn của đất nước và địa phương, Đảng bộ đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, qua đó tạo không khí vui tươi phấn khởi, củng cố niềm tin vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. đảng viên thường xuyên tự phê bình, phê bình, chấp hành tốt Điều lệ Đảng và quy định về những điều đảng viên không được làm.

Thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị và kế hoạch hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh, của huyện về triển khai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Ban Chấp hành Đảng bộ xã mở các lớp học tập chuyên đề “Xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, là đạo đức, là văn minh” theo kế hoạch của Huyện ủy. Xác định rõ mục đích, yêu cầu của cuộc vận động là cần thiết trong tình hình hiện nay, Đảng ủy xã đã tổ chức triển khai thực hiện để thông qua đó nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống, các tệ nạn xã hội, chống tham ô lãng phí. Đảng ủy xã đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện cuộc vận động từ xã đến cơ sở, đồng thời phân công nhiệm vụ cho từng thành viên Ban chỉ đạo phụ trách các đơn vị, chi bộ trong Đảng bộ. Đặc biệt, năm 2010, Ban chỉ đạo xã xây dựng kế hoạch cụ thể, sát với tình hình thực tế ở địa phương, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân trong xã thực hiện cuộc vận động. Đảng ủy đã hướng dẫn cán bộ, đảng viên viết bài thu hoạch tự liên hệ và phương hướng phấn đấu rèn luyện của cán bộ, đảng viên sát với nội dung chuyên đề.

Xác định công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nên luôn được Đảng bộ xã quan tâm chỉ đạo sát sao. Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy tham mưu với Ban Chấp hành Đảng bộ ban hành chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm và thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát của cấp ủy. Qua các đợt kiểm tra, những hạn chế, yếu kém dần được khắc phục, xử lý nghiêm các sai phạm của các tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên theo đúng quy định. Đảng bộ đã thi hành kỷ luật 12 đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, trong đó 01 đảng viên bị khiển trách, 03 đảng viên bị cảnh cáo 01 bị cách chức, xóa tên 07 đồng chí. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đã kết nạp thêm 18 đảng viên mới.

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã Thạch Long xây dựng các kế hoạch triển khai, tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Hội đồng nhân dân duy trì tốt chức năng hoạt động, tăng cường vai trò giám sát kiểm tra. Hằng năm, Hội đồng nhân dân đã ra các nghị quyết phù hợp với điều kiện của địa phương, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu về kinh tế - xã hội trong phạm vi thẩm quyền được phân cấp. Từ năm 2006, xã thực hiện hoạt động hành chính “một cửa”. Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế “một cửa” của Ủy ban nhân dân được thành lập và đi vào hoạt động, đổi mới phương pháp làm việc, tiếp nhận và giải quyết các hồ sơ của nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân trong xã tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh trật tự. Mặt trận Tổ quốc đã tích cực triển khai thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, công tác xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa đạt kết quả tốt.

Đoàn Thanh niên xã với phong trào “Thanh niên tình nguyện”, “Năm xung kích bốn đồng hành”... Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao được Đoàn duy trì ở cấp cơ sở, tỷ lệ thu hút thanh niên vào Đoàn đạt 42%. Hằng năm, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi đạt loại xuất sắc. Đến năm 2010, Đoàn Thanh niên có 315 đoàn viên, thanh niên.

Hội Phụ nữ gắn việc triển khai thực hiện phong trào thi đua với nhiệm vụ trọng tâm của Hội với những nội dung cụ thể, thiết thực. Nội dung thi đua tập trung vào việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nhiệm vụ trọng tâm của Hội. Hội đã phát hiện, bồi dưỡng những phụ nữ tiên tiến trên các lĩnh vực, từ đó thúc đẩy phong trào thi đua, động viên phụ nữ tích cực lao động sản xuất. Hội Phụ nữ với phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo xây dựng gia đình hạnh phúc” đã thu hút đông đảo chị em phụ nữ tham gia. Tỷ lệ tập hợp hội viên của Hội là 81%. Năm 2010, Hội Phụ nữ có 805hội viên.

Hội Nông dân thường xuyên đẩy mạnh phong trào “Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng”. Hội phối hợp tổ chức tốt chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đưa giống cây con có giá trị kinh tế vào sản xuất, chăn nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mở mang dịch vụ phát triển ngành nghề. Tỷ lệ tập hợp hội viên của Hội là 81%. Đến năm 2010, Hội có 813 hội viên.

Hội Cựu chiến binh giữ vững và phát huy bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”, vận động hội viên chấp hành tốt chủ trương, đường lối và chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Hội tăng cường công tác giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, phối hợp giải quyết chế độ chính sách cho người có công, thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy của Đảng bộ và chính quyền xã. Tỷ lệ tập hợp hội viên của Hội là 93%. Đến năm 2010, Hội có 316 hội viên.

Trong những năm 2005 - 2010, Đảng bộ và nhân dân xã Thạch Long đã có nhiều cố gắng phấn đấu thực hiện, giữ vững sự ổn định và phát triển, cơ bản hoàn thành các mục tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra. Kinh tế có bước tăng trưởng ổn định, văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, an ninh chính trị được giữ vững. Tuy còn tồn tại một số khuyết điểm, hạn chế nhưng những thành tựu đạt được trong giai đoạn này làm cơ sở, tiền đề cho xã phát triển ở giai đoạn sau.

 

 

 

 

 

 

 


 

 

Chương VII

ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2010 - 2021)

 

I. ĐẢNG BỘ XÃ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2015

Hòa chung khí thế cả nước đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 4/8/2009 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tháng 5/2010, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015. Đại hội đã đánh giá nghiêm túc đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVI, đồng thời thảo luận và đề ra phương hướng chung trong nhiệm kỳ mới là: đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, phát huy và khai thác tốt hơn nữa tiềm năng nội lực và thế mạnh của địa phương; phát huy dân chủ ở cơ sở; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

Đại hội bầu 14 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa mới. Ban Chấp hành bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ. Đồng chí Bùi Văn Ngọc được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Bùi Công Định làm Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, đồng chí Lê Xuân Thủy là Phó Bí thư Đảng ủy- Chủ tịch UBND xã.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXVII, Đảng bộ và nhân dân địa phương đã tiếp tục phát huy những thành tích đạt được, vượt qua khó khăn để giành nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực. Giai đoạn 2010 - 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của xã là 16,7%; tổng giá trị sản xuất đạt 67,500 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng: giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ thương mại. Năm 2015, ngành nông, lâm, thủy sản chiếm tỷ trọng 43,3%; ngành công nghiệp, thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng 25,9%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 28.200.000 đồng/năm.

Ngay từ đầu nhiệm kỳ 2010 - 2015, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới đã được Đảng bộ xã xác định là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị. Ngày 05/8/2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết 26-NQ/TW về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới gồm 19 tiêu chí để các địa phương, đơn vị thực hiện. Đảng bộ đã tập trung vào công tác tuyên truyền, triển khai vận động tới nhân dân một cách sâu rộng thông qua các đoàn thể, các Hội nghị của xã và thôn, hệ thống loa truyền thanh, giới thiệu nội dung các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới.

Đảng ủy đã tập trung chỉ đạo xây dựng lộ trình thực hiện 19 tiêu chí NTM với phương châm: “Chủ động, nỗ lực phấn đấu đồng bộ, toàn diện, dễ làm trước, khó làm sau, huy động nội lực là chính, thực hiện công khai dân chủ”, “Dân biết, dân bàn, dân đóng góp, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng thụ”.

Trong 4 năm (2011 - 2015), xã đã đầu tư xây dựng trên 20 tỷ đồng (trong đó từ nguồn ngân sách Nhà nước và ngân sách xã là 12 tỷ đồng, nhân dân đóng góp 8 tỷ đồng) để làm phòng học và các công trình phụ trợ cho trường Mầm non, cải tạo sửa chữa, nâng cấp Trạm y tế, trường Tiểu học, Trung học cơ sở, đài truyền thanh, nhà bia tưởng niệm, kênh mương... chính quyền địa phương đã huy động nhân dân bỏ công để làm đường đổ bê tông được 10/22,57km đường giao thông nông thôn.

Năm 2011, xã mới đạt 7/19 tiêu chí, đến năm 2015 xã đã đạt 15/19 tiêu chí, tăng 8 tiêu chí so với đầu nhiệm kỳ. Trong 2 năm 2013-2014, nhân dân đã tự nguyện đóng góp, xây dựng được 14,9km đường bê tông trị giá 7,45 tỷ đồng, hệ thống đường liên thôn được bê tông hoá 100%. Cuối năm 2014, toàn xã có 02 thôn đạt 14/14 tiêu chí; 03 thôn đạt 12/14 tiêu chí; 01 thôn đạt 10/14 tiêu chí. Đến năm 2015, đã có 04 thôn là thôn 2, thôn 3, thôn 4, thôn 6 được đề nghị công nhận đạt 14/14 tiêu chí NTM. Hiệu quả của chương trình xây dựng NTM mang lại đã phục vụ thiết thưc đời sống, cải thiện rõ rệt bộ mặt nông thôn đã khích lệ tinh thần phấn khởi của nhân dân, do đó việc phấn đấu đạt 19/19 tiêu chí đã trở thành động lực thi đua trong toàn xã. Phong trào toàn dân tham gia xây dựng NTM đang tiếp tục được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã đạt được nhiều tiến bộ có tính toàn diện về kinh tế, văn hóa - xã hội, y tế - giáo dục và an ninh quốc phòng, góp phần không nhỏ trong việc xây dựng Đảng, Chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị vững mạnh.

Ngay sau Đại hội, Đảng ủy xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân phát triển kinh tế theo hướng hàng hóa, bên cạnh sản xuất nông nghiệp là trọng tâm thì khuyến khích phát triển ngành nghề và các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Trong nông nghiệp, Đảng ủy luôn quan tâm đến sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, đã làm tốt công tác giao thông thủy lợi, nạo vét kênh mương, cứng hóa mương máng tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp như: máy nước, máy cày, máy xay xát, máy tuốt, máy vò lúa... được nhân dân ứng dụng rộng rãi. Với các biện pháp tích cực trên, tổng sản lượng lương thực bình quân hằng năm đạt 685kg/người/năm.

Về chăn nuôi, địa phương đã triển khai hiệu quả công tác phòng trừ dịch bệnh, vệ sinh môi trường đối với các hộ gia đình chăn nuôi và kinh doanh giết mổ gia súc, gia cầm hạn chế tối đa xảy ra dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, đầu tư phát triển cả về quy mô và chất lượng. Năm 2015, tổng đàn lợn của xã là 3.200 con (giảm 5% so với đầu nhiệm kỳ), tổng đàn trâu, bò là 1.130 con (giảm 6,8 % so với đầu nhiệm kỳ), đàn gia cầm là 70 nghìn con.

Chương trình nuôi trồng thủy sản tiếp tục được phát triển, được sự hỗ trợ vốn của tỉnh, huyện, diện tích nuôi thả cá của xã ngày càng phát triển. Xã tiếp tục chuyển 24ha diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, đến năm 2015, Thạch Long có 24ha diện tích nuôi trồng thủy sản kết hợp. Giá trị sản xuất thủy sản đạt 98 triệu đồng/ ha/năm.

Kinh tế đồi rừng được Đảng ủy quan tâm chỉ đạo. Thực hiện Dự án phát triển ngành lâm nghiệp (WB3), trong các năm 2012 - 2013, chính quyền địa phương đã chỉ đạo nhân dân khai thác hết số diện tích rừng trồng dự án 661 và tập trung chỉ đạo nhân dân trồng, chăm sóc, bảo vệ 24ha rừng trồng WB3 đảm bảo đạt 100% kế hoạch.

Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ tập trung vào một số ngành nghề như xay xát, nghề mộc, nghề sản xuất gạch... Những ngành nghề này tạo việc làm cho hàng trăm lao động địa phương. Đến năm 2015, toàn xã có 30 hộ kinh doanh thương mại dịch vụ (tăng 05 hộ so với đầu nhiệm kỳ), tổng giá trị sản xuất thương mại, dịch vụ đạt 26 tỷ đồng.

Công tác quản lý ngân sách được thực hiện chặt chẽ. Hoạt động thu, chi ngân sách được chỉ đạo theo đúng Luật Ngân sách của Nhà nước. Chi ngân sách được thực hiện theo dự toán, đảm bảo cân đối và phân bổ đồng đều trên các lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu chi thường xuyên cho các ban ngành hoạt động. Chính quyền xã, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên xã phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng chính sách xã hội tạo điều kiện để nhân dân vay vốn phát triển sản xuất, phục vụ an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn hằng năm đạt 4,4 tỷ đồng, chi ngân sách xã trong nhiệm kỳ là 20,3 tỷ đồng, trong đó chi thường xuyên 18,2 tỷ đồng, chi đầu tư xây dựng 1,8 tỷ đồng.

Xác định “Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”, Đảng bộ luôn chú trọng quan tâm đến công tác văn hóa - xã hội trên mọi lĩnh vực. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tiếp tục được duy trì, thu hút đông đảo mọi người dân tham gia, nhất là lực lượng thanh niên và trở thành nét đẹp trong sinh hoạt cộng đồng. Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, đến năm 2015, toàn xã đã có 05 làng văn hóa đạt 90%, 02 cơ quan văn hóa cấp huyện, tỷ lệ gia đình văn hóa bình quân hằng năm đạt trên 85%. Công tác thông tin tuyên truyền, việc thực hiện nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang và lễ hội theo Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị, Quy định 1323 của UBND tỉnh được thực hiện nghiêm túc

Cơ sở vật chất cho giáo dục đảm bảo phục vụ công tác giảng dạy và học tập. Xã duy trì phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập Trung học cơ sở. Phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực được triển khai thực hiện hiệu quả trong các cấp học. Tỷ lệ học sinh lên lớp hằng năm đạt trên 90%. Tỷ lên học sinh giỏi, giáo viên dạy giỏi, học sinh đỗ tốt nghiệp ở các cấp năm sau cao hơn năm trước. Đầu năm học 2014 - 2015, trường Mầm non đã đảm bảo các điều kiện tổ chức học bán trú. Trường Trung học cơ sở đạt chuẩn mức độ 1 vào năm 2013.

Trường Tiểu học của xã có quy mô 11 lớp, từ năm 2010-2015, do thầy Nguyễn Văn Xế làm Hiệu trưởng, cô Bùi Thị Linh làm Phó Hiệu trưởng. Cơ sở vật chất phục vụ công tác dạy và học được đảm bảo, trường lớp được xây dựng mới, có 12 phòng học kiên cố, có văn phòng, phòng hiệu bộ, phòng đoàn thể, thư viện, phòng đồ dùng dạy học, nhà y tế, bảo vệ, có khuôn viên tường rào, đường đi được bê tông hoá, có cây xanh, đảm bảo môi trường xanh, sạch, đẹp. Trong hoạt động giảng dạy, rèn luyện của trường luôn đạt chất lượng khá; hằng năm trường đều đạt tiên tiến cấp huyện. Tỷ lệ học sinh giỏi đạt bình quân 19%.

Trường Trung học cơ sở đến năm 2010 quy mô còn 08 lớp, từ năm 2010-2015, do thầy Bùi Văn Lương làm Hiệu trưởng, cô Võ Thị Mười làm Phó Hiệu trưởng. Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, xã đã huy động nhân dân, tập trung đầu tư xây dựng cho nhà trường 16 phòng học kiên cố, làm mới nhà Hiệu bộ và các phòng chức năng, hoàn chỉnh công trình vệ sinh, khuôn viên tường rào... Để nâng cao chất lượng dạy và học, nhà trường đã yêu cầu giáo viên luôn đổi mới phương pháp dạy học để thích ứng với từng đối tượng học sinh, khuyến khích, động viên học sinh tích thi đua học tốt. Do vậy, tỷ lệ học sinh giỏi đạt bình quân 8,3%; 100% giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn, hằng năm đều đạt trường tiên tiến, xuất sắc; nhà trường liên tục giữ vững là 1/4 trường nằm trong tốp đầu xuất sắc của huyện. Năm 2012, Trường Trung học cơ sở Thạch Long được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 1.

Trung tâm học tập cộng đồng đã bám sát thực tiễn sản xuất và đời sống nhân dân với phương châm cần gì học nấy. Trong nhiệm kỳ qua,Trung tâm đã mở được 150 lớp tập huấn cho nhân dân, 6 lớp tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, 1 lớp đào tạo tin học, 6 lớp nghề ngắn hạn thu hút hàng nghìn lượt người tham gia, chất lượng hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng luôn được xếp loại A.

Công tác khuyến học không những được thể hiện trong chủ trương và kế hoạch của cấp ủy chính quyền mà đã đi sâu vào tiềm thức của nhân dân, được quy định trong quy ước của làng và quy định của mỗi gia đình dòng họ, 100% các đơn vị đều có quỹ khuyến học, khuyến tài, hàng năm tổ chức phát thưởng cho các em học sinh giỏi các cấp, học sinh đậu đại học, cao đẳng, hổ trợ học sinh khó khăn vươn lên học tập với tổng số tiền khuyến học bình quân hàng năm là: 54,7 triệu đồng.

Công tác Y tế:

Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân ngày càng được quan tâm và các chương trình y tế quốc gia, chương trình tiêm chủng mở rộng được triển khai có hiệu quả, chất lượng khám, chữa bệnh cho người dân được nâng lên. Các chương trình tiêm chủng mở rộng cho bà mẹ và trẻ em được quan tâm chỉ đạo, thực hiện tốt công tác truyền thông dân số, các chiến dịch tăng cường sức khỏe sinh sản. Năm 2012 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn 2. Đến năm 2015 tỷ lệ sinh tự nhiên dưới 0,6%

Công tác y tế luôn được cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể quan tâm lãnh chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện.

Trạm y tế xã từng bước được tăng cường các y bác sĩ có trình độ chuyên môn đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân trong xã. Trạm Y tế xã do bác sĩTrương Thị Thẻ (quê Thành Hưng) làm trạm trưởng, với biên chế 6 cán bộ, nhân viên và 6 cán bộ y tế ở 6 thôn.

UBND xã đã tập trung đầu tư, hoàn thiện đạt chuẩn toàn bộ khuôn viên và các phòng chức năng.

Trạm y tế  đã phối hợp với Hội Nông dân, Hội liên hiệp Phụ nữ và các đoàn thể trong xã tuyên truyền, giải thích cho nhân dân và hội viên thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình. Nhiều anh, chị em đã thực hiện đình sản, việc sinh con thứ 3 đã giảm, tỷ lệ sinh tự nhiên giảm từ 2,6% xuống còn 2,2%. Trạm y tế xã và hệ thống vệ sinh viên các xóm đã làm tốt công tác phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Mạng lưới y tế viên ở xóm được giữ vững và hoạt động thường xuyên tích cực. Công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, hành nghề y dược tư nhân, vệ sinh môi trường phòng chống dịch bệnh, vệ sinh học đường và các chương trình quốc gia về y tế được thực hiện có hiệu quả. Môi trường vệ sinh trong làng xóm và học đường ngày càng tiến bộ. Việc ăn chín uống sôi đã trở thành thói quen của dân. Ý thức Y tế dự phòng của dân tốt. Chế độ bảo hiểm y tế được thực hiện đầy đủ kịp thời đúng đối tượng. Công tác tiêm chủng mở rộng được tiến hành thường xuyên, đúng định kỳ. Các cháu sơ sinh được tiêm vắc xin phòng bệnh: bạch hầu, sởi, đậu mùa, uốn ván... và uống vitamin. Đến năm 2015, đã có 100% hộ gia đình sử dụng nước hợp vệ sinh, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng là 5%. Bên cạnh đó, Trạm đã tổ chức khám bệnh cho các cụ tuổi cao, các hộ chính sách để lại những ấn tượng tốt đẹp trong nhân dân.

Các chính sách xã hội luôn được Đản ủy quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt, đảm bảo chi chi trả đầy đủ các khoản trợ cấp, ưu đãi đến các đối tượng theo quy định của Nhà nước. Chính sách hậu phương quân đội đối với các gia đình liệt sĩ, thương, bệnh binh, người có công với nước được thực hiện nghiêm túc, đúng chủ trương chính sách của Đảng. Hằng năm, địa phương còn tổ chức thăm hỏi, động viên, tặng quà vào các dịp lễ, tết Nguyên đán cho các đối tượng chính sách. Thực hiện phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, Ban chính sách luôn tham mưu cho Đảng uỷ, UBND xã làm tốt công tác chính sách xã hội trong xã, có kế hoạch và tổ chức tốt việc cấp phát cho các đối tượng đúng kỳ và đủ số lượng và kịp thời. Đối với con em các gia đình chính sách đi học, đều được miễn giảm học phí, đóng góp xây dựng trường, được trường cho mượn sách giáo khoa và học phụ đạo không mất tiền.

Công tác xóa đói giảm nghèo được Đảng bộ và chính quyền quan tâm, nhờ vậy đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Việc bình xét hộ nghèo và các đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện đúng quy định, đảm bảo khách quan, dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, các ban ngành của xã luôn chú trọng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động. Đến năm 2015, số hộ nghèo còn 116/1378, tỷ lệ 8,43%, tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên là 2.926 lao động, trong đó lao động qua đào tạo là 907, bằng 30,2%. Công tác tôn giáo, hoạt động tín ngưỡng, được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Bà con vùng giáo luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kính chúa, yêu nước, sống tốt đời đẹp đạo, bài trừ hủ tục lạc hậu, chống mê tín dị đoan, xây dựng nếp sống văn hóa văn minh.

Công tác quốc phòng - an ninh: Thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và mở các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên với tỷ lệ đạt trên 90%/năm. Hằng năm, địa phương thực hiện tốt công tác tuyển quân đạt 100% chỉ tiêu trên giao, duy trì tốt chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, kế hoạch huấn luyện dân quân tự vệ đều đạt khá, giỏi.

Ban công an đẩy mạnh phong trào “Quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”, xây dựng kế hoạch tổ chức truy quét tội phạm làm trong sạch địa bàn, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện phát triển cho các dự án đầu tư vào địa phương. Ban Công an kết hợp với lực lượng quân sự địa phương bảo vệ thành công cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII, nhiệm kỳ 2011-2016 và đảm bảo an ninh trật tự trong các ngày lễ lớn của đất nước.

Trong 5 năm (2010 - 2015), công an xã đã giải quyết 36 vụ theo thẩm quyền. Nhìn chung, trong 5 năm, an ninh trật tự trên địa bàn xã ổn định, không có tình trạng khiếu kiện đông người hay vượt cấp. Lực lượng công an thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ, đảm bảo trật tự xã hội ở địa phương. Tình hình an ninh - quốc phòng, trật tự an toàn xã hội luôn đảm bảo, phong trào Toàn dân đoàn kết bảo vệ an ninh tổ quốc” gắn với xây dựng quốc phòng toàn dân luôn được quan tâm đẩy mạnh

Công tác xây dựng Đảng được chú trọng trên các mặt tư tưởng, chính trị, tổ chức và kiểm tra. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được tiến hành thường xuyên, có sự đổi mới về nội dung và phương thức. Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đều được triển khai, truyền đạt đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tỷ lệ cán bộ, đảng viên được học tập đều đạt trên 90%. Các chương trình hành động được cụ thể hóa và sát thực tế, được nhân dân ủng hộ, thực hiện đạt hiệu quả. Đặc biệt, Đảng ủy chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 về “Tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tổ chức học tập các chuyên đề theo từng năm. Cùng với việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng bộ đã quan tâm tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, giáo dục truyền thống, nắm bắt diễn biến tư tưởng cán bộ, đảng viên, chú trọng việc sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, đồng thời bổ sung, điều chỉnh các giải pháp phù hợp. Nhờ vậy, tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân ổn định, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Đảng ủy xã đã chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” một cách nghiêm túc tới tất cả các chi bộ, đảng viên theo đúng kế hoạch đề ra. Đảng bộ xã đã tiến hành nhiều cuộc họp nhằm đánh giá đúng những ưu điểm, đồng thời chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm tồn tại, làm rõ những nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm đó và đề ra các giải pháp khắc phục.

Đây là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng trong Đảng bộ. Các tổ chức Đảng, các đồng chí đảng viên, đặc biệt là các đồng chí giữ chức vụ quan trọng trong Đảng, trong chính quyền và trong các tổ chức đoàn thể đã nêu cao tinh thần gương mẫu, nghiêm túc, tiến hành tự phê bình, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhất là những mặt còn yếu kém, không nể nang, né tránh; đề ra các biện pháp khắc phục, sửa chữa thuyết phục khả thi; kết hợp chống và xây, nói đi đôi với làm. Sau kiểm điểm, Đảng bộ đã tiếp tục củng cố và tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quan tâm sửa chữa, khắc phục những tồn tại yếu kém. Sau 2 năm thực hiện, những hạn chế, tồn tại được khắc phục, vài trò của cấp ủy được nâng cao, việc đấu tranh tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) được thực hiện thường xuyên, kịp thời ngăn chặn những hiện tượng suy thoái đạo đức lối sống, chủ nghĩa cơ hội, tệ nạn tham nhũng... nâng cao tinh thần đoàn kết lãnh đạo nhân dân địa phương, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, đoàn kết tập trung thực hiện mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn toàn xã, đồng thời củng cố lòng tin của nhaandaan đối với Đảng

Công tác xây dựng, củng cố tổ chức được Đảng ủy quan tâm thường xuyên. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Đảng bộ đã giải thể chi bộ cơ quan, phân công đảng viên về sinh hoạt với các chi bộ thôn, các đồng chí trong Ban Thường vụ được phân công sinh hoạt chỉ đạo ở những chi bộ còn khó khăn, nhằm tăng cường sức lãnh đạo cho các chi bộ thôn. Hằng năm, Đảng bộ duy trì chế độ sinh hoạt theo đúng quy định, các chi bộ duy trì tốt chế độ sinh hoạt Đảng, nội dung sinh hoạt từng bước được đổi mới. Công tác đánh giá chất lượng cán bộ và công tác quy hoạch cán bộ được coi trọng, đảm bảo hầu hết cán bộ được cử đi bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng cơ bản nguồn cán bộ theo hướng chuẩn hóa. Tỷ lệ chi bộ đạt trong sạch vững mạnh là 7/11 đạt 77%, tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ 129 đạt 89,5% Đảng bộ 02 năm đạt trong sạch vững mạnh, 03 năm hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Công tác cán bộ có nhiều đổi mới, việc đánh giá, phân loại cán bộ hằng năm được thực hiện nghiêm túc. Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy đã cử 15 cán bộ, công chức đi học đại học và 15 cán bộ, công chức đi học lớp trung cấp chính trị.

Hằng năm, Đảng bộ thực hiện tốt công tác phát triển Đảng. Các nhân tố tiêu biểu, đoàn viên, hội viên ưu tú được giới thiệu theo học lớp cảm tình Đảng. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đã cử 38 đồng chí học lớp cảm tình Đảng, kết nạp 38 đảng viên mới. Đến năm 2015, Đảng bộ có 174 đảng viên.

Trong những năm 2010 - 2015, Đảng ủy và Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy đã chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra về việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy. Quy chế làm việc, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng lãng phí, kiểm tra tổ chức Đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm Điều lệ Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện nghiêm túc. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đã thi hành kỷ luật khiển trách 2 đảng viên. Thông qua kiểm tra, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát được nâng lên giúp Đảng ủy đánh giá, nhận xét cán bộ, đảng viên và các chi bộ kịp thời, ngăn ngừa sai phạm, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.

Đảng bộ luôn xác định để mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống và mang lại ý nghĩa thiết thực thì phải chú trọng tới công tác xây dựng, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền. Hội đồng nhân dân xã tiếp tục đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các kỳ họp, tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri theo luật định. Năm 2011 Đồng chí Bùi Văn Ngọc được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, đồng chí Hoàng Văn Thanh được bầu làm PCT HĐND, đồng chí Lê Xuân Thủy làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Đến ngày 20/03/2012 do điều động luân chuyển công tác cán bộ, đồng chí Phạm Đình Nguyệt, Bí thư Đảng ủy - Chủ tịch HĐND xã Thạch Đồng được chuyển về làm Bí thư Đảng ủy xã Thạch Long thay đồng chí Bùi Văn Ngọc, đồng chí Nguyễn Đình Bằng, đồng chí Vũ Văn Hồng được bầu làm Phó Chủ tịch UBND xã. Ngày 01/10/2014, đồng chí Nguyễn Đình Bằng chuyển công tác, đồng chí Phạm Thị Ngần chuyển về giữ chức Phó Chủ tịch UBND xã.

Ủy ban nhân dân từng bước nâng cao năng lực và hiệu quả công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng bộ và Hội đồng nhân dân thành các chương trình, kế hoạch và các đề án để thực hiện có hiệu quả. Các thủ tục hành chính được thực hiện theo cơ chế một cửa” đã đi vào nề nếp. Công tác thi đua khen thưởng được chú trọng, đã kịp thời động viên cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân nỗ lực phấn đấu thực hiện nhiệm vụ và tham gia các phong trào thi đua yêu nước.

Mặt trận Tổ quốc bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, tập trung tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, phong trào “Ngày vì người nghèo”.

Đoàn Thanh niên tổ chức tốt các phong trào “Thanh niên tình nguyện”, “Năm xung kích, bốn đồng hành”, tình nguyện đến vùng xã xôi khó khăn trong huyện với 4 chương trình tình nguyện, tập huấn công tác đoàn, đội và tổ chức nhiều hoạt động văn hóa - văn nghệ đạt kết quả. Trong những năm 2010 - 2015, Đoàn Thanh niên luôn đi đầu trong lao động sản xuất, các hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao được đông đảo đoàn viên, thanh niên hưởng ứng. Năm 2015, Đoàn Thanh niên có 975 đoàn viên, thanh niên.

Phụ nữ Thạch Long tích cực lao động sản xuất, chăm lo đến đời sống tinh thần, giáo dục con em trong việc học tập. Hội Phụ nữ triển khai có hiệu quả 6 nhiệm vụ trọng tâm của công tác Hội, thực hiện phong trào thi đua: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tao, xây dựng gia đình hạnh phúc”; Phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế”; “Phụ nữ chung tây xây dựng nông thôn mới”... Chị em phụ nữ ở các chi hội là lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, nuôi con khỏe, dạy con ngoan, thực hiện tốt chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình, chị em tích cực xây dựng quỹ hội, đến năm 2015 quỹ hội đạt 76 triệu đồng, Hội đã tín chấp Ngân hàng Chính sách Xã hội cho 217 hội viên vay để phát triển kinh tế gia đình với số tiền là 6,452 tỷ đồng

Hội liên hiệp Phụ nữ xã Thạch Long giai đoạn 2010 - 2015 có 6 chi hội trực thuộc, 798 hội viên, chiếm 75,7% phụ nữ trong độ tuổi sinh hoạt, kết nạp trong nhiệm kỳ được 89 chị em vào hội.

Hội Nông dân triển khai các chương trình, dự án của cấp trên, giúp nhau xóa đói giảm nghèo. Hội cũng thường xuyên phối hợp với hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp tổ chức chuyển giao áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi, phát triển trang trại, gia trại. Giai đoạn 2010 -2015, Hội Nông dân có 6 chi hội trực thuộc, năm 2015, Hội Nông dân có 975 hội viên.

Hội đã thực hiện tốt 5 nội dung nhiệm vụ trọng tâm của hội; Thực hiện xây dựng tổ chức hội vững mạnh, tích cực chuyển giao khoa học kỹ thuật sản xuất mới cho nông dân, chỉ đạo phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững; Tích cực trong phong trào xây dựng Nông thôn mới, đã có 196 hộ nông dân tiêu biểu đạt sản xuất, kinh doanh giỏi cấp xã, 17 hộ nông dân tiêu biểu đạt sản xuất kinh doanh giỏi cấp huyện. Quỹ hội đạt trên 25 triệu đồng, Hội đã tín chấp, quản lý giúp 364 hộ nông dân vay vốn ngân hàng để phát triển sản xuất là 16,2 tỷ đồng.

Phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, các hoạt động của Hội Cựu Chiến binh được duy trì và phát triển. Hội thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho hội viên, giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, động viên các hội viên tiếp tục phát huy truyền thống của người lính trên Mặt trận phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, thực hiện chức năng tham gia xây dựng Đảng, bảo vệ chính quyền. Năm 2015, Hội Cựu chiến binh có 384 hội viên.

Các tổ chức xã hội nhìn chung tích cực hoạt động đạt kết quả thiết thực, góp phần ổn định xã hội ở địa phương, được cấp trên đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Nhiệm kỳ 2010 - 2015, Đảng bộ và nhân dân Thạch Long đã đạt được những kết quả quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ. Văn hóa - xã hội tiếp tục được quan tâm, duy trì. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Những kết quả đạt được là điều kiện thuận lợi để Đảng bộ và nhân dân trong xã tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, quyết tâm hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVII.

II. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XÃ THẠCH LONG ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, BỨT PHÁ MẠNH MẼ, XÂY DỰNG XÃ NÔNG THÔN MỚI (2015 - 2021)

1. Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Thạch Long lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020

Thực hiện Chỉ thị số 36/CT-TW, ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Thạch Thành, từ ngày 27đến ngày 28 tháng 5 năm 2015, tại hội trường UBND xã Thạch Long đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Thạch Long lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020. Về dự Đại hội có 168 đại biểu đại diện cho 196 đảng viên trong toàn xã.

Sau khi nghe Báo cáo chính trị, báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ xã khoá XXVII; Báo cáo tổng hợp ý kiến của các chi bộ; các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội trong xã đóng góp vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; dự thảo Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ huyện Thạch Thành lần thứ XXIV, với tinh khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm, dân chủ, đoàn kết và đổi mới, Đại hội đã phân tích đánh giá những ưu điểm cũng như những nhược điểm trong tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã khóa XXVII và đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu nhiệm kỳ 2015 - 2020. Nghị quyết Đại hội chỉ rõ phương hướng chung là: “Giữ vững ổn định chính trị, thu hút các chương trình dự án vào đầu tư tại địa phương, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng lấy dịch vụ thương mại làm mũi nhọn. Phát triển kinh tế nông, ngư nghiệp, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm. Tập trung giải quyết việc làm gắn với thực hiện tốt các vấn đề xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng đời sống văn hóa, văn minh, xây dựng hệ thống chính trị ngày càng trong sạch vững mạnh.

Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra phương hướng, mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu và các giải pháp cho nhiệm kỳ 2015 - 2020 là “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững. Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, xã hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đảm bảo quốc phòng - an ninh. Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị vững mạnh, toàn diện”.

Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, Đảng bộ tập trung lãnh đạo và tổ chức thực hiện, phấn đấu hoàn thành những chỉ tiêu cụ thể:

- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân thời kỳ 2015 - 2020 là 16%. Cơ cấu kinh tế đến năm 2020: tỷ trọng nông, lâm, thủy sản chiếm 38,7%; tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng chiếm 36,8%; tỷ trọng thương mại dịch vụ chiếm 24,5%. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 40,5 triệu đồng/năm.

- Về văn hóa - xã hội: Tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa năm 2020 là trên 85%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đến năm 2020 là 0,96%. Trường Tiểu học, trường Mầm non được công nhận trường đạt chuẩn quốc gia giai đoạn I.

- Về công tác xây dựng Đảng, chính quyền: Tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt và hoàn thành nhiệm vụ 80%, trong đó có 15% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 60% chi bộ trực thuộc đạt trong sạch vững mạnh, không có chi bộ không hoàn thành nhiệm vụ. Mỗi năm Đảng bộ kết nạp được 10 đảng viên mới trở lên. Đảng bộ hàng năm đạt trong sạch vững mạnh.

Đại hội bầu 13 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa mới. Ban Chấp hành bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ. Đồng chí Lê Văn Khuyên được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Bùi Công Định được bầu làm Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, đồng chí Lê Xuân Thủy Phó bí Thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã. Đồng chí Lê Thị Nhung làm Phó Chủ tịch HĐND, đồng chí Vũ Văn Hồng làm Phó Chủ tịch UBND xã.Tháng 12 2018 Đồng chí Bùi Công Định nghỉ chế độ . Đến tháng 3 năm 2019 đồng chí Từ văn Cương làm phó bí Thư thường trực đảng ủy

Ban Chấp hành Đảng bộ phát động phong trào thi đua yêu nước nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã khóa XXVIII. Sau 5 năm tổ chức thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiềm lực kinh tế của địa phương và nhân dân đã được tích lũy, tư duy kinh tế của người dân có bước phát triển mới, nội bộ đoàn kết, đội ngũ cán bộ từ xã đến thôn năng động, sáng tạo và đã giành những thắng lợi trên các lĩnh vực:

Về phát triển kinh tế:

Trong sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất; mở rộng diện tích lúa lai. Nếu như trước đây người dân quan tâm đến những giống lúa có năng suất cao, thì nay người dân tìm đến những giống lúa vừa có năng suất cao vừa có chất lượng tốt, giá trị hàng hóa cao. Bình quân tổng diện tích cây trồng chủ yếu thời kỳ 2016 - 2020 ước đạt 4.482,9ha, năng suất bình quân 50,02 tạ/ha, sản lượng đạt 22.423,4 tấn, bình quân hằng năm đạt 4.484,6 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 896 kg/người/năm. Hằng năm, diện tích vùng lúa thâm canh năng suất chất lượng cao cánh đồng lớn duy trì ổn định 160ha, năng suất bình quân đạt 63,5 tạ/ha, sản lượng đạt 1.016 tấn; diện tích ngô hằng năm đạt 102,3 ha, năng suất đạt 40,4 tạ/ha, sản lượng đạt 413,2 tấn, trong đó năm 2018 là năm đạt sản lượng ngô cao nhất. Diện tích mía bình quân hằng năm ổn định 29,5ha, năng suất 62,36 tấn/ha, sản lượng đạt 1.839,8 tấn.

  Tốc độ tăng giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) thời kỳ 2016 - 2020 bình quân đạt 16,9%, vượt 1,9% so với nghị quyết. Tổng giá trị sản xuất đến cuối năm 2019 đã đạt 445.435,1 triệu đồng, tăng 5,6% so với nghị quyết. Trong đó: ngành nông, lâm, thủy sản đạt 135.418,6 triệu đồng, chiếm 30,4%; ngành công nghiệp xây dựng đạt 104.901 triệu đồng, chiếm 23,6%; ngành thương mại dịch vụ đạt 205.115,5 triệu đồng, chiếm 46%; bình quân thu nhập đầu người đến cuối năm 2019 đạt 47,1 triệu đồng, tăng 13,9 triệu đồng so với năm 2016.

Về chăn nuôi, xã tập trung cải tạo nâng cao chất lượng đàn bò, thực hiện tốt chính sách hỗ trợ bò cái sinh sản cho 37 hộ khó khăn, đồng thời làm tốt công tác tiêm phòng, phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm. Đến nay, đàn bò lai đạt khoảng 80% tổng đàn toàn xã, bên cạnh đó việc nuôi dê, nuôi gia cầm, nuôi ong lấy mật có nhiều chuyển biến. Tổng đàn trâu bò hiện có 718 con, đàn lợn 1.913 con, đàn gia cầm 18.000 con, đàn dê 153 con, đàn ong mật 1.480 đàn.

Kinh tế trang trại phát triển mạnh, chăn nuôi ngày càng mở rộng về quy mô, trong thời kỳ đã xây dựng mới 05 trang trại, đến năm2020 toàn xã có 20 trang trại, trong đó có 14 trang trại được cấp giấy chứng nhận.

Về lâm nghiệp, xã có diện tích đất lâm nghiệp là 215ha, chiếm 22,4% diện tích tự nhiên, nhân dân trong xã luôn làm tốt công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng. Trong giai đoạn 2016 - 2020, đã khai thác và trồng mới 135ha rừng sản xuất, tỷ lệ độ che phủ rừng đến năm 2020 đạt 21%, đạt 100% so với nghị quyết.

Về nuôi trồng thuỷ sản, diện tích nuôi trồng thuỷ sản giữ ổn định 150ha, trong đó diện tích ao nuôi thâm canh là 31ha. Sản lượng thu hoạch bình quân hằng năm đạt 67,8 tấn.

Sản xuất công nghiệp, tiêu thủ công nghiệp và xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất ngành tiểu thủ công nghiệp - xây dựng bình quân thời kỳ 2016 - 2020 ước đạt 132.967 triệu đồng, tăng 32,96% so với đầu kỳ. Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng luôn được chú trọng. Hưởng ứng chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông thôn mới, Đảng ủy, chính quyền xã đã tổ chức vận động Nhân dân phát huy nội lực, huy động sức người, sức của để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nhiều công trình xây dựng đã phát huy hiệu quả như: Công sở UBND, hội trường UBND xã, Trường Mầm non, Trường Tiểu học; xây mới và nâng cấp 6 nhà văn hoá thôn, cải tạo nâng cấp đập Đầm Lác thôn 5, bê tông hoá 8,4km đường giao thông, 3,5km kênh mương nội đồng. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 150 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách nhà nước 31 tỷ đồng, vốn dân cư ước đạt 111 tỷ đồng, vốn doanh nghiệp 8 tỷ đồng.

Tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển khá, số cơ sở sản xuất hằng năm tăng, các nghề mộc, nề, cơ khí góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn, toàn xã đến năm 2020 có 35 ô tô vận tải; 165 máy cày bừa; 12 máy gặt, đập liên hoàn, 4 cơ sở sản xuất gạch không nung (trong đó có 01 nhà máy), 15 cơ sở sản xuất mộc dân dụng, 10 xưởng cơ khí, 02 hộ chế biến lâm sản, 7 tổ thợ xây dựng dân dụng, 15 hộ xay sát gạo, 7 hộ sản xuất ngành may mặc (trong đó có 01 dây chuyền công nghiệp); 5 hộ sữa chữa ô tô, xe máy. 

Sản xuất kinh doanh - dịch vụ tiếp tục phát triển, nhiều hộ kinh doanh - dịch vụ mở rộng quy mô sản xuất - kinh doanh thu hút thêm lao động có nhiều việc làm và cho thu nhập ổn định. Giá trị sản xuất ngành thương mại dịch vụ bình quân thời kỳ 2016 - 2020 ước đạt 249.215,3 triệu đồng, tăng 52,5% so với đầu kỳ. Số hộ kinh doanh và dịch vụ trên địa bàn xã có 96 hộ, tăng 23% so với nghị quyết, có 975 công nhân đang làm việc tại các nhà máy trong và ngoài tỉnh, có 55 người đi xuất khẩu lao động. Giai đoạn 2015 - 2020 đã thu hút 02 dây chuyền nhà máy sản xuất may mặc và gạch không nung đầu tư vào địa bàn, thành lập mới 3 doanh nghiệp đã và đang hoạt động hiệu quả. Thực hiện khâu dịch vụ nông nghiệp, HTX đã cung ứng 300 tấn lúa giống; 2000 tấn phân bón; vận chuyển hàng nghìn tấn mía nguyên liệu.

Ngân sách và các hoạt động tài chính tín dụng: Việc quản lý thu chi ngân sách đảm bảo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương trên các lĩnh vực phát triển sản xuất, phục vụ đời sống dân sinh, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, xã hội. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn luôn đạt và vượt dự toán, bình quân thu ngân sách nhà nước hàng năm đạt 8.919,7 triệu đồng, đạt 141% so với dự toán huyện giao. Chi ngân sách nhà nước đáp ứng kịp thời nhiệm vụ trên các lĩnh vực, chi ngân sách hằng năm 8.919, triệu đồng, đạt 100% kế hoạch. Các hoạt động tín dụng, ngân hàng trên địa bàn cơ bản đã đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, nhân dân được tiếp cận các nguồn vốn vay thuận lợi để đầu tư phát triển kinh tế gia đình. Tổng dư nợ đến đầu năm 2020 là 38.030 triệu đồng, tăng 33,7% so với năm 2015. Trong đó ngân hàng nông nghiệp 21.020 triệu đồng, ngân hàng chính sách xã hội 17.010 triệu đồng.

Công tác quản lý tài nguyên môi trường và việc thiết lập xác nhận hồ sơ địa chính, đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) được xã thực hiện đúng quy hoạch và kế hoạch được duyệt. Trong 5 năm, địa chính xã đã lập quy hoạch sử dụng đất đai giai đoạn 2015 - 2020, hằng năm xây dựng kế hoạch sử dụng đất phục vụ phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng. Hoàn thành việc đo đạc và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa cho 1.351 hộ; hướng dẫn làm thủ tục cho 204 trường hợp thực hiện quyền sử dụng đất, lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở 391 trường hợp.

Các hoạt động quản lý bảo vệ nguồn nước, xử lý rác thải, trồng cây xanh (tại các khu trường học, trạm y tế, nhà văn hoá thôn, công sở UBND xã), vệ sinh đường làng, ngõ xóm luôn được Đảng ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong xã quan tâm chỉ đạo. Đến năm 2020, toàn xã có 85,7% hộ dân có nhà tiêu hợp vệ sinh, 87,3% hộ có nhà tắm hợp vệ sinh, 100% hộ được dùng nước hợp vệ sinh.

 

Về văn hóa - xã hội:

Về văn hóa - xã hội có những chuyển biến tích cực, hoạt động văn hoá thông tin, thể dục thể thao được đổi mới cả về nội dung và hình thức, tạo không khí sôi nổi trong thực hiện các phong trào thi đua.. Hoạt động thông tin tuyên truyền luôn bám sát nhiệm vụ chính trị tại cơ sở. Các chương trình, nội dung được chuẩn bị khoa học, đảm bảo phục vụ các ngày kỷ niệm, các sự kiện chính trị, xã hội quan trọng của đất nước và địa phương. Hoạt động TDTT được nhân dân tham gia tích cực, phong trào toàn dân rèn luyện thân thể nâng cao sức khỏe thông qua các hoạt động bóng đá, cầu lông, bóng chuyền hơi.... đã đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của nhân dân, góp phần gìn giữ, phát huy văn hoá truyền thống của quê hương, đất nước. Đến năm 2020, toàn xã có 6 làng văn hoá, 4 cơ quan, đơn vị đạt và giữ vững danh hiệu cơ quan, đơn vị văn hoá cấp huyện, tỷ lệ gia đình văn hoá bình quân hằng năm đạt 73%, tỷ lệ gia đình thể thao đạt 30%. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; phong trào xây dựng gia đình“Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo” đạt được kết quả đáng khích lệ

Công tác giáo dục được quan tâm đầu tư, cơ sở vật chất trường lớp được củng cố, trang thiết bị được tăng cường, chất lượng giáo dục từng bước được nâng cao. Tỷ lệ học sinh khá giỏi năm sau cao hơn năm trước. Trong 5 năm, (2015 -2020), học sinh đỗ vào các trường đại học, cao đẳng là 37 em; trung cấp và học nghề: 75 em; học sinh giỏi cấp tỉnh là 25 em; giỏi cấp huyện 325 em, tăng 55 em so với năm 2015; học sinh khá giỏi hằng năm chiếm tỷ lệ 55%. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được chú trọng, việc biểu dương và nhân rộng các điển hình về đổi mới phương pháp dạy và học được thực hiện thường xuyên. Hằng năm, luôn làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, tăng cường cơ sở vật chất cho các nhà trường, phát huy vai trò của hội Khuyến học và Trung tâm học tập cộng đồng, xây dựng xã hội học tập đạt 15/15 tiêu chí, đã mở được 185 lớp thu hút được 8.325 lượt học viên tham gia.

Về y tế: Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân từng bước được nâng lên. Trong 5 năm, Trạm Y tế đã tham mưu cho Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã thực hiện tốt các chính sách về y tế, vệ sinh môi trường; tổ chức khám và điều trị cho hơn 22.000 lượt người. Các chương trình tiêm chủng mở rộng, công tác y tế dự phòng, công tác khám chữa bệnh cho nhân dân, công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh học đường được thực hiện đầy đủ kịp thời đúng đối tượng. dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cho các đối tượng đạt tỷ lệ cao, đồng thời các chỉ tiêu về tăng dân số tự nhiên, chỉ tiêu về giảm trẻ em suy sinh dưỡng đều đạt chỉ tiêu đề ra.

Các chương trình giải quyết việc làm, nâng cao nguồn nhân lực xóa đói giảm nghèo được cấp ủy Đảng và chính quyền xã quan tâm, đời sống nhân dân từng bước được nâng lên. Trong 5 năm qua, tỷ lệ lao động được đào tạo bình quân là 65%, tỷ lệ lao động qua đào tạo có việc làm thường xuyên là 100%, bình quân mỗi năm đã đào tạo việc làm mới cho 350 người, đạt 100% so với nghị quyết. Xuất khẩu lao động được 55 người. Từ kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế, số lao động ở các ngành trồng trọt, chăn nuôi chuyển dần sang làm dịch vụ, thương mại và các ngành nghề khác tăng hằng năm. Công tác giảm nghèo được cấp ủy đảng và chính quyền xã quan tâm, chỉ đạo nên đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên rõ rệt. Năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo là 8,4%, cuối năm 2019 còn 2,8% (giảm 5,6%), tỷ lệ giảm nghèo bình quân hàng năm đạt 1,12%. Các chế độ chính sách ưu đãi của Nhà nước dành cho hộ nghèo, cận nghèo, đối tượng chính sách, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng được triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời. Thực hiện các chính sách xã hội, Đảng bộ lãnh đạo các đoàn thể tham gia các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” quan tâm đến các gia đình chính sách. Trong các dịp lễ, tết, cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể thăm hỏi động viên kịp thời các gia đình liệt sỹ, thương binh, người có công với cách mạng và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

 Công tác quốc phòng - an ninh

 Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy, HĐND, UBND xã, công tác quốc phòng - an ninh của địa phương đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn và nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Về quốc phòng, hằng năm Đảng ủy đã kịp thời ban hành các nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, chỉ đạo xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ về quốc phòng - an ninh, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Viêc huấn luyện dân quân được thực hiện theo đúng chỉ đạo của Ban Chỉ huy Quân sự huyện. Trong 5 năm, xã đã đưa tiễn 22 công dân lên đường nhập ngũ, hoàn thành 100% chỉ huyện giao. Bổ sung, điều chỉnh kế hoạch quân sự - quốc phòng, xây dựng các phương án phòng thủ. Thực hiện nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, phối hợp với Ban CHQS huyện tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đối tượng 4 với 104 đồng chí và tổ chức huấn luyện dân quân địa phương cho 300 lượt đồng chí. Công tác huấn luyện chiến đấu, diễn tập chiến đấu phòng thủ được thực hiện nghiêm túc theo tinh thần Nghị quyết 765/NQ - QUTW của Quân ủy Trung ương, Nghị quyết 269 của Bộ Tư lệnh Quân khu về “Nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”. Đổi mới tổ chức, phương pháp huấn luyện của đội ngũ cán bộ, huấn luyện sát với thực tế chiến đấu, phù hợp với đối tượng tác chiến, điều kiện chiến tranh vũ khí công nghệ cao, kết quả huấn luyện hằng năm có 100% đạt yêu cầu trong đó có trên 75% đạt khá giỏi.

Chính sách hậu phư­ơng quân đội luôn được Đảng ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn thể của xã quan tâm thực hiện; các hoạt động “Uống nước nhớ nguồn đền ơn đáp nghĩa”, thăm hỏi, tặng quà các gia đình chính sách và tổ chức viếng tượng đài liệt sỹ nhân dịp các ngày lễ, tết luôn được tiến hành thường xuyên. Ban chính sách của xã đã hoàn chỉnh hồ sơ theo Quyết định số 49/2015/QĐ -TTg về một số chế độ chính sách đối với dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế cho 459/459 hồ sơ, trong đó có 362 đối tượng đã có Quyết định được hưởng trợ cấp, các đối tượng còn lại đã hoàn chỉnh hồ sơ chờ cấp trên giải quyết.

Về an ninh: Xây dựng lực lượng công an xã đủ về số lượng, đảm bảo về trình độ năng lực công tác, thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của tỉnh, của huyện, đề án 375, Chỉ thị số 10 và đề án 1212 của UBND tỉnh Thanh Hóa, đồng thời Ban Công an xã đã kiện toàn 81 tổ an ninh xã hội. Vì vậy, các tệ nạn xã hội giảm, phần lớn các vụ việc xảy ra đều được giải quyết kịp thời, đúng luật, tạo chuyển biến vững chắc về an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội, làm cho quần chúng nhân dân an tâm sản xuất. Bên cạnh đó, Ban Công an xã còn đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, xây dựng “Khu dân cư an toàn về an ninh trật tự”, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các chương trình phối hợp giữa Ban Công an xã với các ban ngành, đoàn thể. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội; tăng cường thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông. Trong nhiệm kỳ, trên địa bàn xã đã xảy ra 31 vụ việc, công an xã đã giải quyết 15 vụ việc, chuyển công an huyện thụ lý và giải quyết 16 vụ. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc được phát huy hiệu quả, tỷ lệ khu dân cư an toàn về an ninh trật tự hàng năm đạt 83%.

Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã: Hội đồng nhân dân xã đã tích cực đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng các kỳ họp, các kỳ tiếp xúc cử tri theo quy định của pháp luật, nghị quyết và quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương ngày càng sát thực hơn. Trong nhiệm kỳ qua, HĐND xã đã ban hành được 55 nghị quyết. Các nghị quyết HĐND xã ban hành đảm bảo quy trình, thủ tục theo quy định. Nội dung Nghị quyết tập trung vào những vấn đề bức xúc, cấp thiết trên địa bàn tạo lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân ngày một thay đổi và tiến bộ.

Bốn năm đầu nhiệm kỳ, Chủ tịch HĐND xã do đồng chí Lê Văn Khuyên, Bí thư Đảng ủy kiêm nhiệm. Đến tháng 5 năm 2020, đồng chí Lê Văn Khuyên Bí thư Đảng ủy - Chủ tịch HĐND xã nghỉ hưu theo chế độ Nhà nước, Thường trực HĐND xã còn 01 đồng chí, ngày 13/7/2020 tại kỳ họp thứ 11 HĐND xã tiến hành bầu bổ sung đồng chí Vũ Văn Hồng, Bí thư Đảng ủy xã nhiệm kỳ 2020-2025 giữ chức vụ Chủ tịch HĐND xã khóa XX nhiệm kỳ 2016-2021. Năm 2016, HDDND xã chuẩn bị và thực hiện tốt công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 ở địa phương, bầu đủ số lượng đại biểu HĐND xã, đảm bảo tiêu chuẩn và cơ bản đảm bảo cơ cấu thành phần.

Ủy ban nhân dân xã tăng cường công tác quản lý Nhà nước và điều hành thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội đạt kế hoạch, tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực quản lý, điều hành theo pháp luật. Công tác quản lý, điều hành trên các lĩnh vực được thực hiện đồng bộ, việc cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông có sự chuyển biến rõ nét. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của Đảng ủy, HĐND đề ra. Các nhiệm vụ lớn phát sinh đều có sự thống nhất chỉ đạo, quản lý, điều hành giữa HĐND và UBND. Duy trì mối quan hệ, phối hợp chặt chẽ với MTTQ và các đoàn thể trong việc tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Công tác tiếp dân, giải quyết các đơn thư kiến nghị của công dân đảm bảo nhanh gọn, đúng luật. Tổ chức triển khai đồng bộ các giải pháp chỉ đạo khôi phục phát triển sản xuất sau mưa lũ, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm; quan tâm công tác cải cách hành chính, giải quyết tốt đơn thư khiếu nại của công dân tạo ổn định tại địa phương.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tăng cường củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phối hợp với các tổ chức thành viên thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình; tích cực tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ chính trị, các phong trào thi đua yêu nước ở địa phương; giám sát, phản biện xã hội, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh; thực hiện tốt công tác hiệp thương ứng cử đại biểu HĐND xã nhiệm kỳ 2016 - 2021. Triển khai thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước và các cuộc vận do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp phát động đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã Thạch Long từ năm 2015 đến năm 2019 do ông Từ Văn Cương làm Chủ tịch, từ năm 2019 đến nay (2021), ông Bùi Văn Hòa làm Chủ tịch với 31 ủy viên.

Mặt trận đã thường xuyên chủ động bám sát các mục tiêu kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, vận động các thành viên tổ chức thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư đang ngày càng phát huy tác dụng. Ngày 18/11 hàng năm được lấy làm ngày hội đoàn kết toàn dân tộc. Các thôn xóm tổ chức chu đáo, Mặt trận còn tham gia đầy đủ các buổi họp của Đảng uỷ-HĐND-UBND, tổ chức các buổi tiếp xúc cử tri, các nhiệm kỳ bầu của quốc hội và HĐND các cấp góp phần đắc lực vào việc xây dựng củng cố chính quyền ngày càng vững mạnh. Mặt trận thường xuyên quan tâm xây dựng người cao tuổi, ông bà mẫu mực con cháu hiếu thảo. Bên cạnh các việc trên mặt trận còn chủ trì phối hợp với các đoàn thể làm tốt cuộc vận động ngày vì người nghèo, vận động nhân dân ủng hộ đồng bào bị thiên tai; ủng hộ quỹ phòng chống Covid-19 trong năm 2020 và năm 2021

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đẩy mạnh các hoạt động thi đua, trọng tâm là phong trào“Xung kích, tình nguyện phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và phong trào “Bốn đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”; Trong nhiệm kỳ, Đoàn phối hợp với Hội CCB tổ chức giáo dục, nói chuyện truyền thống, các hoạt động tuyên truyền dưới hình thức sân khấu hóa thu hút gần 1.000 lượt cán bộ, đoàn viên thanh thiếu niên và nhân dân tham gia; đồng thời tổ chức tốt hoạt động thắp nến tri ân các anh hùng liệt sỹ. Đoàn Thanh niên xã phối hợp với Ban công an, Ban Chỉ huy Quân sự xã, Hội Phụ Nữ, Ban văn hóa tổ chức tuyên truyền, phổ biến cho đoàn viên, hội viên về Luật thanh niên, Luật giao thông đường bộ, Luật phòng chống ma túy, Luật nghĩa vụ quân sự, Luật hôn nhân gia đình...qua đó góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của tuổi trẻ trong thực hiện pháp luật, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội và tham gia đăng ký nghĩa vụ quân sự. Các hoạt động đã thu hút đông đảo đoàn viên thanh thiếu niên tham gia, tạo sức lan tỏa góp phần bồi đắp lòng tự hào dân tộc, truyền thống hào hùng của quê hương, đất nước. Tỷ lệ tập hợp đoàn viên thanh niên vào tham gia sinh hoạt đạt 67%.

Hội Nông dân không ngừng nâng cao chất lượng nội dung sinh hoạt chi hội. Tỷ lệ tập hợp hội viên vào tham gia sinh hoạt hội đạt 66,9%. Được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Đảng uỷ, sự phối hợp với UBND, Hội đã tổ chức thực hiện phát động và đẩy mạnh phong trào gia đình nông dân sản xuất kinh doanh giỏi cả về bề rộng và chiều sâu, có sức lan tỏa trên phạm vi toàn xã, trên các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và dịch vụ, tham gia tuyên truyền công tác dồn điền đổi thửa được hội viên nông dân đồng tình hưởng ứng cao, tạo ra những tiền đề cho nông dân toàn xã tiếp cận với những tiến bộ KHKT mới, Phong trào đã khích lệ động viên nông dân toàn xã hăng hái thi đua lao động sản xuất vươn lên xoá đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng, góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, nâng cao giá trị thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân. Điển hình như: hộ ông Trịnh Hùng Sáng ở thôn 1 với mô hình chăn nuôi tổng hợp ngan, vịt. gà, ông Lê Văn Dụng ở thôn 4 chăn nuôi lợn, ông Lê Ngọc Doanh ở thôn 4 chăn nuôi tổng hợp cá, vịt, lợn, bà Nguyễn Thị Chuân chăn nuôi tổng hợp gà, lợn vịt …. và nhiều hộ khác trên địa bàn xã.

Hội Nông dân xã Thạch Long đã tích cực tuyên truyền vận động cán bộ, hội viên nông dân thực hiện có hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, xã văn hoá thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, lễ hội, phòng chống các tai nạn tệ nạn xã hội, thực hiện các chính sách kế hoạch hoá gia đình tham gia các hoạt động khuyến học khuyến tài ở địa phương. Với những kết quả thiết thực, hiệu quả, Hội Nông dân xã được BCH Hội Nông dân huyện Thạch Thành tặng giấy khen hoàn thành suất sắc nhiệm vụ trong 4 năm và có 5 chi hội và 5 cá nhân được Huyện Hội tặng giấy khen hoàn thành suất sắc nhiệm vụ.

Đây là nguồn cổ vũ động viên khích lệ hội viên nông dân hăng hái thi đua tham gia lao động, sản xuất kinh doanh và tổ chức phong trào Hội, qua đó đã tác động mạnh mẽ đến việc thu hút hội viên.

Hội Liên hiệp Phụ nữ đã bám sát Nghị quyết của BCH Đảng bộ Hội phụ nữ cấp trên, cụ thể hóa và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, mang lại quyền, lợi ích thiết thực cho hội viên phụ nữ, được chị em hưởng ứng tham gia tích cực và đạt kết quả cao. Hoạt động của tổ chức Hội đã giúp phụ nữ nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc sống, giúp chị em phụ nữ nâng cao vị thế trong gia đình và xã hội; được các cấp, các ngành biểu dương và ghi nhận. Trong nhiệm kì (2016-2021), 02 chị được thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam tặng giấy khen, 01 chị được Tỉnh hội tặng bằng khen, 3 chị được UBND huyện tặng giấy khen, 5 chị được tặng giấy khen của BTV Hội LHPN huyện, 5 tập thể được Ban Thường vụ Hội LHPN huyện tặng giấy khen, Hội LHPN xã đã vinh dự 5 năm liền được Hội LHPN huyện tặng giấy khen.

 Hội Phụ nữ xã đã có những viêc làm thiết thực như vận động chị em xây dựng quỹ hội, trồng cây ngô đông sinh khối trên đất hai lúa, xây dựng và duy trì các tổ tiết kiệm. Đến năm 2021, 6/6 chi hội xây dựng quỹ tiết kiệm để giúp hội viên có hoàn cảnh khó khăn vay phát triển kinh tế.

Hội đã tập trung tuyên truyền gia đình hội viên phụ nữ thực hiện tốt cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không 4 sạch” gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới. Với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân đóng góp, dân quản lý và hưởng lợi”, công tác xây dựng nông thôn mới được triển khai đồng bộ ở các chi hội trên địa bàn xã, đây là chủ trương hợp lòng dân được hội viên phụ nữ và nhân dân đồng tình ủng hộ. Kết quả đã huy động vốn đóng góp của hội viên phụ nữ và nhân dân xây dựng Nông thôn mới trên 88 tỷ đồng, huy động được 15.740 ngày công lao động, vận động nhân dân hiến trên 1.500m2 đất ở và đất trồng cây lâu năm để làm đường giao thông nông thôn và tỉnh lộ 532C điển hình gia đình chị Lê Thị Bảo, Lê Thị Lan, Vũ Thị Tám, Lê Thị Hòa…. Hiện nay có 6/6 thôn đạt 14/14 tiêu chí. Xã đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị cấp trên thẩm định hoàn thành chương trình xây dựng NTM vào cuối năm 2021.

Hội Cựu chiến binh luôn vận động hội viên, gia đình và nhân dân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương; vận động cựu chiến binh gìn giữ phát huy phẩm chất “Anh Bộ đội cụ Hồ”, gương mẫu thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, hăng hái thi đua phát triển kinh tế, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh. Tỷ lệ tập hợp hội viên tham gia sinh hoạt hội đạt 90%.

Hội đã khơi dậy ý chí tự lực, tự cường vượt khó vươn lên, giúp nhau làm kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm giàu hợp pháp, nâng cao đời sống, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên. Cùng với phát triển kinh tế, hoạt động tình nghĩa luôn được Hội quan tâm, với nghĩa cử cao đep “Lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều”, nhiệm kỳ qua hội viên ủng hộ quỹ từ thiện 35,91 triệu đồng; giúp hội cựu chiến binh nghèo vốn làm ăn để vươn lên trong cuộc sống; Hội đã xây dựng 2 nhà cho 2 gia đình liệt sỹ và một nhà cho hội viên CCB. Hằng năm tu sửa dọn vệ sinh ở đài tưởng niệm, thăm hỏi hội viên hội viên ốm đau. Lúc hội viên qua đời, Hội tổ chức đưa tiễn về nơi an nghỉ cuối cùng chu đáo, thắm tình đồng đội.

Hội thường xuyên phối hợp với Ban Công an, Ban Chỉ huy Quân sự xã nắm chắc tình hình, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn thôn xóm. Các hội viện hội Cựu chiến binh đều tham gia tổ an ninh, tổ hòa giải.

Các tổ chức như Hội Người cao tuổi, Hội Khuyến học, Công đoàn cơ sở cùng với Hội Cựu thanh niên xung phong, Hội Chữ thập đỏ, hoạt động bám sát điều lệ hội và các quy định hướng dẫn của cấp trên, phối hợp cùng với các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở hoàn thành các nhiệm vụ trọng tâm đã đề ra. Hằng năm, các đoàn thể đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được các cấp khen thưởng.

Công tác xây dựng Đảng: Thực hiện quan điểm của Đảng: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, các cấp ủy đảng trên địa bàn luôn chú trọng đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới. Trong 5 năm, Ban Chấp hành Đảng bộ , Ban Thường vụ Đảng ủy đã ban hành nghị quyết, ... chỉ thị, ...... chương trình hành động, ...... kết luận và 05 đề án để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ. Các cấp ủy đã chỉ đạo tổ chức học tập, quán triệt, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động; đồng thời xây dựng các chương trình, kế hoạch, đề án cụ thể hóa để thực hiện, kịp thời đưa các chủ trương, nghị quyết vào cuộc sống.

Công tác chính trị, tư tưởng:

Công tác chính trị, tư tưởng được đổi mới về phương pháp, đa dạng về nội dung và hình thức, đem lại hiệu quả thiết thực. Cùng với việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng bộ đã quan tâm tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, giáo dục truyền thống, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng được quán triệt, triển khai sâu rộng đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Các chương trình hành động được cụ thể hóa và sát thực tế, được nhân dân ủng hộ, thực hiện đạt hiệu quả cao. Phương pháp tuyên truyền được thực hiện bằng nhiều hình thức như: Thông qua hệ thống đài truyền thanh, báo cáo chuyên đề, các hội nghị báo cáo viên, thông tin trên bản tin của xã, thôn.

Thường xuyên nắm bắt tình hình, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, trên cơ sở đó để có định hướng tư tưởng kịp thời và điều chỉnh những thiếu sót, lệch lạc; tập trung giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc tại khu dân cư, đơn vị; làm tốt công tác nêu gương người tốt, việc tốt trong các đợt sơ kết, tổng kết. Công tác xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, sơ kết, tổng kêt các chỉ thị, nghị quyết được chú trọng; công tác biên soạn lịch sử đảng bộ xã đã được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và xem đây là một nhiệm vụ chính trị hết sức quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.

Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng và truyền thống của địa phương. Trong nhiệm kỳ, đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên của Đảng bộ đã tham gia các cuộc thi viết về kỷ niệm lần đầu Bác Hồ về thăm Thanh Hóa; 50 năm thực hiện Di chúc Hồ Chủ tịch; 990 năm Thanh Hóa…

 

 Công tác tổ chức cán bộ: Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Ban Chấp hành Đảng bộ đã triển khai nhiều giải pháp về công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.

Thực hiện chủ trương của cấp ủy cấp trên về công tác điều động, luân chuyển, sắp xếp cán bộ, Đảng ủy đã tổ chức các hội nghị lấy phiếu giới thiệu bầu bổ sung chức danh Phó Bí thư thường trực Đảng ủy, chức danh Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy, nhiệm kỳ 2015 - 2020, chức danh Chủ tịch UBND xã nhiệm kỳ 2016-2021, chức danh chủ tịch MTTQ xã nhiệm kỳ 2019 - 2024. Chỉ đạo thành công Đại hội MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, thực hiện đề án công an chính quy công tác ở xã và tham gia Uỷ viên Ban Chấp hành đảng bộ, chỉ đạo đại hội các chi bộ nhiệm kỳ 2020 - 2022 đúng kế hoạch đề ra, có 6/6 chi bộ nông thôn đã xây dựng phương án Bí thư Chi bộ kiêm trưởng thôn, đến thời điểm hiện tại đã có 2/6 thôn đã thực hiện nhất thể hóa, dự kiến sau khi hoàn thành việc tổng kết nhiệm kỳ, 100% số thôn sẽ thực hiện việc nhất thể hóa Bí thư chi bộ kiêm Trưởng thôn.

Thực hiện chủ trương điều động luân chuyển cán bộ của Ban Thường vụ Huyện ủy, ngày 10/10/2018, Ban Thường vụ Huyện ủy điều động đồng chí Lê Xuân Thủy, Phó Bí thư - Chủ tịch UBND xã Thạch Long sang làm Bí thư Đảng ủy xã Thạch Tân (nay là xã Thạch Bình), điều động đồng chí Nguyễn Xuân Sợi, Phó Bí thư Đảng ủy - Chủ tịch UBND xã Thạch Đồng về làm Phó Bí thư Đảng ủy. Ngày 14 tháng 10 năm 2018, đồng chí Nguyễn Xuân Sợi được HDND xã khóa 20 bầu làm Chủ tịch UBND xã Thạch Long nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Ngày 02 tháng 01 năm 2019, đồng chí Bùi Công Định, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy nghỉ hưu theo Nghị định 108, đến ngày 11 tháng 3 năm 2019, đồng chí Từ Văn Cương được bầu bổ sung giữ chức danh Phó Bí thư Đảng ủy xã Thạch Long. Ngày 01/10/2019, đồng chí Nguyễn Xuân Sợi nghỉ hưu theo Nghị định 108, đồng chí Vũ Văn Hồng, Phó Chủ tịch UBND xã được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ định làm Quyền Chủ tịch UBND xã đến ngày 4 tháng 5 năm 2020. Ngày 24 tháng 3 năm 2020, Ban Thường vụ Huyện ủy điều động chỉ định đồng chí Nguyễn Đình Bằng về làm Phó Bí thư Đảng ủy xã Thạch Long. Đến ngày 04 tháng 5 năm 2020, đồng chí Nguyễn Đình Bằng được HĐND xã khóa XX bầu làm Chủ tịch UBND xã nhiệm kỳ 2016 - 2021

Trong nhiệm kỳ đã bồi dưỡng và kết nạp 12 quần chúng ưu tú vào Đảng (đạt 33% so với Nghị quyết đề ra), xét đề nghị chuyển đảng chính thức 12 đồng chí, xét đề nghị tặng huy hiệu Đảng cho 35 đồng chí. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ gắn với quy hoạch và yêu cầu nhiệm vụ chính trị, bảo đảm yêu cầu tiêu chuẩn, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Đảng ủy đã mở lớp tập huấn nghiệp vụ công tác đảng cho các đồng chí là chi ủy viên lần đầu tham gia cấp ủy chi bộ với số lượng là 31 đồng chí tham gia. Cử cán bộ, công chức tham gia các khoá đào tạo lý luận chính trị, chuyên môn, đến nay tỷ lệ cán bộ chủ chốt, công chức có chuyên môn đại học đạt 100% và trung cấp lý luận chính trị đạt 81%; công tác bảo vệ chính trị nội bộ được thực hiện đảm bảo theo quy định.

 Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng được cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra Đảng uỷ quan tâm thực hiện. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Đảng ủy đã phân công các đồng chí ủy viên BTV, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ phụ trách cụm, phụ trách các đơn vị tham gia sinh hoạt, thường xuyên bám sát các chi bộ thực hiện giám sát thường xuyên. Bên cạnh đó, Đảng ủy, Ủy ban Kiểm tra đã xây dựng, triển khai chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá, hằng năm để thực hiện các cuộc kiểm tra, giám sát theo chuyên đề. Trong nhiệm kỳ qua, Đảng ủy và Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy đã tiến hành 13 cuộc kiểm tra, giám sát chuyên đề đối với 35 lượt tổ chức đảng. Các nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; việc thực hiện chế độ sinh hoạt chi bộ và rèn luyện đảng viên; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; công tác thu, trích nộp đảng phí, việc quản lý, sử dụng kinh phí hoạt động của tổ chức đảng. Qua kiểm tra, giám sát đã kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, ngăn ngừa những khuyết điểm vi phạm, góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng. Trong nhiệm kỳ không có tổ chức đảng và đảng viên sai phạm đến mức phải xem xét thi hành kỷ luật.

 Công tác dân vận: Thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ cơ sở, huy động tốt các nguồn lực đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; gắn các phong trào thi đua, các cuộc vận động với các hoạt động kinh tế - xã hội trong xã. Tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân đẩy mạnh sản xuất, thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, thi đua “Dân vận khéo”. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền luôn duy trì việc đối thoại trực tiếp với dân, giải quyết những phản ánh, kiến nghị của dân, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của cán bộ, hội viên và nhân dân.

2.Đại hội Đảng bộ xã Thạch Long lần thứ XXIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025

Thực hiện Chỉ thị số 35- CT/ TU ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng, từ ngày 12 đến ngày 13 tháng 5 năm 2020, Đảng bộ xã Thạch Long tổ chức Đại hội Đại biểu lần thứ XXIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025, tại Hội trường UBND xã. Tham dự Đại hội có 131 đại biểu thay mặt cho 217 đảng viên từ các chi bộ. Đại hội tiến hành quán triệt thảo luận tham gia góp ý kiến vào các văn kiện của BCH TW Đảng khoá XII để trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, thảo luận các văn kiện của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và huyện lần thứ XXV.

Thông qua văn kiện thảo luận các văn bản của Trung ương Đảng, Đại hội Đảng bộ có được nhận thức mới tổng quát được tình hình và thành quả cách mạng của đất nước trong thế kỷ XXI.

Đại hội đánh giá kết quả tổ chức lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã khóa XXVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 của Đảng bộ; đề ra phương hướng chung trong nhiệm kỳ 2020 - 2025 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền, bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng MTTQ, các đoàn thể vững mạnh. Phát huy nội lực, tranh thủ mọi nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp xây dựng và thương mại dịch vụ, thực hiện tốt quy chế dân chủ, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, hoàn thành mục tiêu xây dựng xã chuẩn nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao, cơ quan, đơn vị đạt tiêu chí thôn kiểu mẫu.

Trên tinh thần phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu của nhiệm kỳ 2020-2025 đã bàn định, Đại hội đã biểu quyết thông qua những mục tiêu chủ yếu của nhiệm kỳ là.

Về phát triển kinh tế

Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất phấn đấu đạt 15,3% trở lên trong đó ngành nông - lâm - thuỷ sản 37,8%, ngành công nghiệp xây dựng 18,3%, thương mại dịch vụ chiếm 43,9%, sản lượng lương thực năm 2021 ổn định ở mức 4.600 tấn trở lên. Tổng lượng thực phẩm đạt 430 tấn. Giá trị thu nhập đầu người phấn đấu 53,2 triệu đồng. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2025 là 68 triệu đồng/ người/ năm.

Về lĩnh vực chăn nuôi: Phấn đấu đàn trâu 270 con, đàn bò 230 con, đàn lợn 650 con, đàn gia cầm 12.100 con, đàn dê 18 con, đàn ong mật 570 đàn.

Đến năm 2025 phấn đấu tổng đàn gia cầm 31,2 nghìn con, đàn trâu 160 con, đàm bò 850 con, đàn lợn 1608 con, dê có 120 con, đàn ong mật 1830 đàn.

Thu ngân sách tăng 15% chỉ tiêu huyện giao.

Về lĩnh vực văn hoá

Phấn đấu đến năm 2025 tốc độ tăng dân số ổn định 0,7%, giảm hộ nghèo bình quân hàng năm 0,13%, tỷ lệ BHYT đạt 91% trở lên. Phấn đấu gia đình văn hoá đạt chuẩn 70% trở lên.

Tiếp tục chăm lo sự nghiệp giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, huy động tốt các cháu đến trường đúng độ tuổi, chú ý đúng mốc hệ mần non. Tập trung xây dựng hội khuyến học, giữ vững danh hiệu 3 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 1, trường THCS đạt chuẩn quốc gia mức độ 2. Tỷ lệ học sinh lên lớp 98%, có chệ độ khuyến học động viên học sinh giỏi, thầy cô dạy giỏi cả ba cấp học

Bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân, coi trọng phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường, dịch Covítd- 19,dịch tả lợn Châu phi, dịch viên da nổi cục, H5N8 trên đàn gia súc.

Về quốc phòng - an ninh

Thường xuyên nâng cao cảnh giác, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ đảng, chính quyền và cuộc sống bình yên cho nhân dân. Kiên quyết đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, xây dựng phong trào quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh tổ quốc.

Tăng cường lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, bồi dưỡng nâng cao năng lực phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ trong lực lượng công an nhân dân từ xã đến thôn đủ điều kiện hoàn thành nhiệm vụ xây dựng lực lượng dân quan tự vệ ngày càng vững mạnh về mọi mặt hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. năm chắc quân dự bị động viên, hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân hàng năm

Với tinh thần trí tuệ - dân chủ - đoàn kết - đổi mới và nghiêm túc, khẩn trương, Đại hội đại biểu Đảng bộ xã đã hoàn thành tốt chương trình của Đại hội đề ra. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XXIX gồm 13 đồng chí và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ thành huyện Thạch Thành lần thứ XXV. Trong phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ bầu Ban Thường vụ Đảng ủy gồm 3 đồng chí. Đồng chí Vũ Văn Hồng được bầu làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Đình Bằng được bầu làm Phó Bí thư - CT UBND xã; đồng chí Từ Văn Cương được bầu làm Phó Bí thư thường trực Đảng ủy.

Sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ phát động phong trào thi đua yêu nước trong toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Thạch Long, lập thành tích cao nhất chào mừng Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chào mừng Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (29/7/1930 - 29/7/2020).

Với truyền thống cách mạng, với tiềm năng và thế mạnh, Đảng bộ và nhân dân xã Thạch Long đoàn kết, khắc phục mọi khó khăn thách thức, phát huy những kết quả đạt được, tranh thủ sự ủng hộ của các cấp, các ngành, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 tạo thế và lực mới để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Thạch Long lần thứ XXIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025, xây dựng xã Thạch Long không ngừng phát triển về mọi mặt.

Bước vào thực hiện nhiệm vụ theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXIX đề ra, Đảng bộ và nhân dân trong xã cũng như nhân dân cả nước gặp phải khó khăn lớn nhất đó là đại dịch Covid -19 diễn ra ngày càng phức tạp và ảnh hưởng nghiêm trọng đến các lĩnh vực phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội. Mặc dù phải đối mặt với những khó khăn, thử thách, Ban Thường vụ Đảng ủy đã xây dựng kế hoạch triển khai, thực hiện, xác định nhiệm vụ, giải pháp trong thực hiện Nghị quyết Đại hội của từng năm và toàn khóa, đặc biệt Ban Chấp hành Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện "mục tiêu kép" vừa phòng chống dịch Covid - 19 vừa phục hồi và phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.

Bằng sự năng động, sáng tạo quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện và sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ và nhân dân trong xã, năm 2021, năm đầu tiên thực Nghị quyết Đại hội lần thứ XXIX , kinh tế xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực, khá toàn diện tên các lĩnh vực.

Tổng giá trị sản xuất đạt 454.401.400.000 đồng, đạt 109 % kế hoạch, tăng 24% so với cùng kỳ. Trong đó giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp đạt 136.975.000.000 đồng, chiếm 30,14%; Công nghiệp xây dựng đạt 116.493.000.000 đồng, chiếm 25,63%; Dịch vụ thương mại đạt 200.933.000.000 đồng, chiếm 44,23%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 56 tỷ đồng, đạt 101,8% so với nghị quyết năm. Bình quân thu nhập đầu người 53,5 triệu đồng, đạt 105,6 % so với nghị quyết.

Chăn nuôi phát triển mạnh: Tổng đàn trâu bò có 797 con, tăng 32,82% so với nghị quyết; đàn lợn 1.017 con, tăng 56,46% so với nghị quyết; đàn gia cầm 12.500 con, đạt 103% so với nghị quyết; đàn dê 90 con, đạt 50% chỉ tiêu; ong mật 1516 đàn, tăng 102,13% so với nghị quyết. Chỉ đạo tiêm phòng định kỳ vaccine cho đàn gia súc gia cầm đạt 100% kế hoạch. Dịch bệnh viêm da nổi cục cũng đã làm thiệt hại cho địa phương 37 con bò, bê trọng lượng tiêu huỷ 4.208kg, song tổng lượng thực phẩm xuất chuồng vẫn đạt 325 tấn, đạt 154% so chỉ tiêu huyện giao. Chỉ đạo thành lập mới 02 doanh nghiệp, đạt 100% chỉ tiêu nghị quyết. Đơn vị đang tiến hành xây dựng sản phẩm Ocop (bánh lá), đồng thời thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ 145ha rừng sản xuất, trong đó có 24ha cây cao su, duy trì, phát huy hiệu quả 14,8ha diện tích thuỷ sản tập trung tại thôn 6.

 Về sản xuất công nghiệp và dịch vụ thương mại: Toàn xã có 110 hộ kinh doanh dịch vụ trong đó 22 hộ kinh doanh các nghề mộc, hàn, nhôm kính, nội thất vật liệu xây dựng.

 Hoạt động thu - chi ngân sách, tín dụng ngân hàng: Tăng cường chỉ đạo thu ngân sách, nhất là các khoản thu tại địa bàn, tổng thu 7.352.000.000 đồng, đạt 100%, chỉ tiêu nghị quyết. Tổng chi 7.352 000.000 đồng, đạt 100% kế hoạch. Tín dụng ngân hàng hoạt động tích cực, đáp ứng nhu cầu vay vốn phát triển kinh tế của của nhân dân, đến tháng 12/2021 tổng dư nợ ngân hàng là 38,1 tỷ đồng trong đó Ngân hàng Nông nghiệp 18 tỷ đồng, Ngân hàng Chính sách xã hội 20,1 tỷ đồng.

       Về xây dựng nông thôn mới: Hoàn thành đơn vị thôn 5 đạt danh hiệu thôn Nông thôn mới, hoàn thành 02km đường bê tông nội đồng, phát động nhân dân xây 03km rãnh thoát nước và đổ rộng lề đường.

Về văn hóa, thông tin:Tập trung chỉ đạo tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị trọng tâm của quê hương, đất nước, như phòng, chống dịch bệnh Covid-19; tuyên truyền thành công của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 và các ngày lễ kỷ niệm của quê hương, đất nước, với 47 băng rôn, 50 pa nô, 06 cụm tin, 124 bài viết trên trang thông tin điện tử, đài truyền thanh, tổ chức treo 1.348 lá cờ Đảng, cờ Tổ quốc...

 Về giáo dục - đào tạo: Chỉ đạo các trường thực hiện tốt công tác phòng chống Covid-19, tổng kết năm học 2020-2021. Trường Mầm non có 331 học sinh, đạt tất cả các tiêu chí là 322 học sinh, tỷ lệ 97.2%. Trường Tiểu học có 423 học sinh, giỏi toàn diện 22,09%, được lên lớp, tỷ lệ 98,14%. Trường THCS có 255 học sinh, giỏi cấp tỉnh có 03 học sinh, giỏi cấp huyện 34 học sinh, khối lớp 9 tốt nghiệp THCS 100%, thi trúng tuyển vào lớp 10 tỷ lệ 90,7%.

Năm học mới 2021-2022, Trường Mầm non có 320 học sinh, Trường Tiểu học có 469 học sinh, Trường THCS có 355 học sinh. Cơ sở vật chất, đồ dùng học tập được chuẩn bị đảm bảo cho công tác giảng dạy. Các trường học tổ chức phun khử khuẩn và tuyền truyền đến học sinh các biện pháp phòng chống dịch Covid để đảm bảo an toàn cho học sinh khi đến trường.

Công tác y tế và phòng, chống dịch Covid-19: Chỉ đạo thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, số người khám chữa bệnh tuyến xã là 2.720 lượt người. Thường xuyên kiểm tra, phối hợp xử lý việc hành nghề y dược tư nhân, buôn bán hàng hoá, thực phẩm kém chất lượng nên trong năm không xảy ra ngộ độc thực phẩm trên địa bàn.

Thực hiện quy định về công tác phòng chống dịch, Đảng ủy đã ban hành Quyết định số 29 - QĐ/ĐU, ngày 30/9/2021 về việc kiện toàn Ban Chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 có 33 thành viên, Quyết định số 29b - QĐ/ĐU ban hành quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo, Quyết định sô 30-QĐ/ĐU thành lập tiểu ban an ninh trật tự có 07 thành viên, Quyết định số 32-QĐ/ĐU thành lập tiểu ban tuyên truyền có 09 thành viên, Quyết định số 32-QĐ/ĐU thành lập tiểu ban huy động nguồn lực có 07 thành viên, Quyết định số 33-QĐ/ĐU thành lập tiểu ban an sinh xã hội có 10 thành viên.

UBND ban hành Quyết định số 77/QĐ-UBND ngày 03/9/2021 thành lập trung tâm chỉ huy có 13 thành viên và 6 tổ giám sát cộng đồng mỗi tổ có 07 thành viên. Ban chỉ đạo giao ca, nhật ký công việc trực 24/24 giờ để giải quyết các công việc liên quan đến phòng chống dịch trên địa bàn. Toàn xã có 1.272 người đi từ địa phương khác trở về địa bàn, phải thực hiện cách ly y tế tại nhà 455 người, tại huyện 20 người.

Tháng 10/2021, trên địa bàn xã có 04 F0 là các công dân làm việc tại chợ Bình Điền trở về địa phương. Sau khi nắm bắt lịch trình cũng như truy vết các F1, F2, và cách lý y tế, quản lý chặt người ra vào địa phương, đồng thời được sự đồng thuận và phối hợp chặt chẽ của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn xã, do đó đơn vị đã khống chế được dịch bệnh không để phát sinh thêm các ca f0 ra cộng đồng.

Từ ngày 20/11 đến ngày 02/12/2021 trên địa bàn xã xuất hiện ổ dịch Covid - 19 tại thôn 4, tổng số F0 là 10, Ban chỉ đạo đã tổ chức truy vết tổng số F1 là 165, F2 là 900; Tổ chức cách ly tại các hộ gia đình, đồng thời phong toả khu dân cư xóm 2 thôn 4, tổng số là 89 hộ với 325 nhân khẩu, đồng thời tổ chức xét nghiệm đối với F1 và F2, lấy mẫu tầm soát, kết quả lấy mẫu lần 1, lần 2 các trường hợp đều âm tính.

Ngày 29/11/2021 tiếp tục lấy mẫu gộp 89 hộ dân xóm 2 thôn 4, kết quả âm tính. Căn cứ tình hình trên ban chỉ đạo xã xin ý kiến Ban chỉ đạo huyện tạm dừng việc phong toả khu vực này, thông báo cho nhân dân thực hiện biện pháp hạn chế đi lại khi không cần thiết, không tiếp xúc với các hộ xung quanh, không tụ tập đông người, mọi người ở trong nhà, giữ khoảng cách và đeo khẩu trang. Kết quả sau 10 ngày đã dừng phong tỏa 89 hộ và sau 14 ngày địa phương không phát sinh dịch, hiện nay đời sống đời sống nhân dân đã trở lại bình thường.

Chính sách an sinh xã hội được Đảng ủy, UBND xã đặc biệt quan tâm. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách đối với người có công, gia đình khó khăn, đối tượng bảo trợ xã hội... Đặc biệt, trong thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid -19, Đảng ủy đã chỉ đạo thực hiện nhanh, kịp thời, đầy đủ.

Tổ chức cho nhân dân đóng góp xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa số tiền 75 triệu đồng. Hiện nay tổng số hộ nghèo là 66 hộ, 221 khẩu, tỷ lệ 4,76%; hộ cận nghèo là 147 hộ, 620 khẩu, tỷ lệ 10,59 %. Tỷ lệ lao động có việc làm 98%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 67%. Tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh 100%, trong đó tỷ lệ hộ dùng nước sạch 85%. Tổng số thẻ bảo hiểm y tế trên địa bàn 4.279/4.850 người dân, đạt 88,22%.

Công tác an ninh - quốc phòng, trật tự an toàn xã hội: Hoàn thành tốt công tác tuyển quân năm 2021 đủ chỉ tiêu trên giao là 04 đồng chí, không có trường hợp đào, bỏ ngũ; tham mưu xử lý 02 trường hợp vắng mặt trong khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Ban Chỉ huy Quân sự xã phân công 03 đồng tham gia thi tìm hiểu Luật Dân quân tự vệ cấp huyện, kết quả 01 đồng chí đạt loại xuất sắc, 02 đồng chí đạt loại giỏi, thi cấp tỉnh có 01 đồng chí đạt loại xuất sắc.Tham gia hội thi quân khu Đồng chí chỉ huy trưởng quân sự xã đạt giải 3. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, tặng 04 sổ tiết kiệm cho tân binh lên đường nhập ngũ, số tiền 04 triệu đồng; tổ chức đón nhận 07quân nhân hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương; phối hợp chi trả chế độ chính sách cho 32 đối tượng hưởng theo Quyết định 49/QĐ-CP, (số đối tượng đã chi trả 419/459 đối tượng, đạt 91,28%). Tổ chức khám tuyển nghĩa vụ quân sự năm 2022, tổng số tham gia sơ tuyển 57 thanh niên, trúng tuyển tại huyện 18 thanh niên, đơn vị nhận quân đã tiến hành thâm nhập gia đình. Lệnh gọi 7 Đã tổ chức giao quân đảm bảo quân số chỉ tiêu huyện giao.

Tình hình an ninh chính trị ổn định; lực lượng công an phối hợp chặt chẽ với lực lượng quân sự thường xuyên tuần tra an ninh, nhất là trong dịp diễn ra Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; Kiểm tra, xử lý hành chính 12 trường hợp vi phạm pháp luật; quản lý các trường hợp thực hiện cách ly y tế tại địa phương, phối hợp với công an huyện hoàn thiện dữ liệu quốc gia về dân cư và làm thẻ căn cước cho công dân.

Công tác xây dựng Đảng: Sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng cấp trên. Trong năm 2021, Đảng ủy tập trung vào nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Đặc biệt là vai trò lãnh đạo Đảng trong công tác chính trị, tư tưởng đã quán triệt đến cán bộ, đảng viên và nhân dân tuyệt đối giữ vững niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng.

Trong công tác tổ chức cán bộ, Đảng ủy thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng lãnh đạo cá nhân phụ trách, tổ chức phê bình, tự phê bình trong Đảng nghiêm túc. Thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát về công tác phát triển đảng viên mới. Thực hiện công tác cán bộ, ngày 21/01/2021, Huyện ủy Thạch Thành điều động đồng chí Nguyễn Thị Huế, Phó Bí thư - Chủ tịch UBND xã Thành Hưng về làm Bí thư Đảng uỷ xã Thạch Long. Đồng chí Vũ Văn Hồng chuyển sang xã Thành Hưng làm PBT-CT UBND xã Thành Hưng. Đến ngày 22/5 cử tri cả nước cũng như cử tri xã Thạch Long bầu cử đại biểu HĐND là 21 đại biểu.

Ngày 04/7/2021, HĐND xã bầu kiện toàn các chức danh theo quy định: đồng chí Nguyễn Thị Huế Bí Thư Đảng ủy được bầu làm Chủ tịch HĐND xã; đồng chí Lê Thị Nhung được bầu làm Phó Chủ tịch HĐND xã; đồng chí Nguyễn Đình Bằng được bầu làm Chủ tịch UBND xã; đồng chí Đoàn Quang Thuận được bầu làm Phó Chủ tịch UBND xã; đồng chí Đào Văn Đông được bầu làm Phó Chủ tịch UBND xã.

Công tác xây dựng hệ thống chính trị: HĐND bám sát định hướng nghị quyết của cấp ủy, tiếp tục đổi mới nâng cao năng lực hoạt động của HĐND; hoàn thành tốt các chương trình giám sát đối với các ngành, các đơn vị về việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; chú trọng nâng cao chất lượng các kỳ họp, tổ chức thẩm định, cho ý kiến các báo cáo, quy hoạch, cơ chế để trình tại các kỳ họp; nâng cao chất lượng tiếp dân, tiếp xúc cử tri; kịp thời giải quyết những kiến nghị sau giám sát, chất vấn, các ý kiến, kiến nghị của cử tri.

UBND xã thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2021; tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện quyết liệt các biện pháp phòng, chống đại dịch Covid-19 hiệu quả; chủ động khắc phục hậu quả, khôi phục các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội. Tích cực tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đẩy mạnh sản xuất kinh doanh; thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển; nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa; triển khai thực hiện tốt các giải pháp đảm bảo an sinh xã hội; đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường chấn chỉnh kỷ cương, lề lối làm việc.

MTTQ và các đoàn thể, tích cực đổi mới nội dung và phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động; đẩy mạnh các phong trào thi đua lập thành tích chào mừng cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp. Tăng cường công tác phối hợp tổ chức các hoạt động thiết thực góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Triển khai thực hiện tốt kế hoạch giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng đảng, xây dựng chính quyền ngày càng vững mạnh; đồng thời quan tâm củng cố tổ chức hội vững mạnh, tăng cường phát triển đoàn viên, hội viên.

Những kết quả bước đầu Đảng bộ và nhân dân xã Thạch Long thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thạch Thành lần thứ XXV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXIX là những dấu mốc quan trọng, là điều kiện vô cùng thuận lợi để Đảng bộ và nhân dân xã vững vàng cùng nhân dân trong huyện hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương. Đây cũng là kết quả có ý nghĩa thiết thực kỷ niệm 75 năm Ngày Đảng bộ xã Thạch Long thành lập (1946 -2021).

 

 

 

 

 


 

 

KẾT LUẬN

 

Thạch Long là vùng đất có truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời. Quá trình chống chọi với thiên tai, địch họa để tồn tại và phát triển đã tạo cho con người nơi đây những đức tính chịu thương, chịu khó, vị tha, nhân nghĩa và đã hình thành nên một sắc thái văn hóa phản ánh đời sống tinh thần phong phú, giàu tình cảm.

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Thạch Long cùng với nhân dân cả nước tiến hành đấu tranh tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng giành thắng lợi. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đã lật đổ ách thống trị của thực dân phong kiến, nhân dân Thạch Long nói riêng nhân dân Việt Nam nói chung cùng bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới dưới chế độ dân chủ cộng hòa.

 Ngày 19 tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ, thực hiện “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Thạch Thành, nhân dân Thạch Long đoàn kết xung quanh Mặt trận Việt Minh và chính quyền cách mạng khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, Huyện ủy Thạch Thành đã chỉ đạo thành lập Chi bộ Sắt vào ngày 1/1/1946, đây là chi bộ tiền thân của Đảng bộ xã Thạch Long ngày nay. Chi bộ Sắt ra đời,, đánh dấu sự lớn mạnh của phong trào cách mạng xã nhà.

Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Thạch Thành, chi bộ Đảng xã Thạch Long tuy số lượng đảng viên còn ít, nhưng đã lãnh đạo nhân dân trong xã ra sức xây dựng hậu phương vững mạnh đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh và trường kỳ kháng chiến”, góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng Điên Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, đưa cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.

    Hơn 20 năm (1954 - 1975), cùng nhân dân miền Bắc vừa xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ không ngừng được củng cố và phát triển, từng bước nâng cao khả năng tập hợp, động viên phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân, giành nhiều thắng lợi to lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, tiến hành cải cách ruộng đất, thỏa mãn ước mơ ngàn đời “Người cày có ruộng” của người nông dân; xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa với “3 ngọn cờ hồng”; thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), đã làm cho quê hương được “thay da đổi thịt”.

Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân vừa sản xuất, vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Đồng thời, chi viện nhân lực, vật lực cho đồng bào miền Nam ruột thịt, góp phần cùng quân dân cả nước “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Đất nước vừa hòa bình thống nhất thì chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc xảy ra. Cùng cả nước, Đảng bộ và nhân dân Thạch Long vừa ra sức khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, vừa huy động sức người, sức của góp phần gìn giữ từng tấc đất biên cương, vùng trời, vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc.

Tổng kết các cuộc kháng chiến cứu quốc, Đảng bộ và nhân dân Thạch Long tự hào đã làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tiền tuyến “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Toàn xã đã có hơn 1000 lượt người đi bộ đội, thanh niên xung phong, dân công tiền phương. Trong số đó có 105 người con đã hy sinh anh dũng trên các chiến trường (trong đó có 14 liệt sĩ chống Pháp, 9 liệt sĩ thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc) và hàng trăm người là thương binh, bệnh binh.

Trên mặt trận sản xuất, mặc dù bị thiên tai, địch họa liên tiếp, song quan hệ sản xuất XHCN vẫn được củng cố hoàn thiện, năng suất lúa năm sau cao hơn năm trước, tiểu thủ công nghiệp phát triển, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn định. Sự nghiệp văn hóa - xã hội luôn được quan tâm và cải thiện hơn trước. Những thành tích đó đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận và tặng những phần thưởng cao quý: 11 mẹ được phong tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng; và hàng trăm Huân, Huy chương các loại cùng nhiều bằng khen, giấy khen của tỉnh, huyện tặng cho tập thể và cá nhân. Đặc biệt, ngày 08 tháng 11 năm 2000, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân thời kỳ chống Mỹ cứu nước cho Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Thạch Long.

Non sông thu về một mối, cả nước chung sức chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, Đảng bộ và nhân dân Thạch Long tiếp tục đối mặt với những khó khăn mới. Thử thách lớn nhất của Đảng bộ trong thời kỳ 1975 - 2021 là phải vượt qua chính mình, không ngừng nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo mọi mặt để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới.

Trong 10 năm đầu đất nước hòa bình, thống nhất (1975 - 1985), Đảng bộ và Nhân dân trong xã phải trải qua nhiều khó khăn của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp; đồng thời tiếp tục huy động sức người sức của cho hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới và biển đảo của Tổ quốc…Đảng bộ xã, trong đó nòng cốt là Ban Chấp hành Đảng bộ đã năng động, sáng tạo, tìm cách đi hợp lý phù hợp với điều kiện của địa phương để từng bước tháo gỡ khó khăn, phát triển kinh tế - xã hội, từng bước ổn định đời sống của nhân dân. Nhân dân trong xã nêu cao tinh thần cách mạng, đoàn kết thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước phấn đấu liên tục giành những thắng lợi quan trọng trên mọi lĩnh vực, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được ổn định.

Từ cuối năm 1986 đến nay, vận dụng một cách sáng tạo đường lối của Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII và XIII của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương, Ban Chấp hành Đảng bộ đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tổ chức lại sản xuất, từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý mới, đưa quê hương tiến bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong bất kỳ khó khăn nào, nhất là khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu tan rã, Đảng bộ luôn chú trọng lãnh đạo trên mặt trận tư tưởng, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, giữ vững nguyên tắc đổi mới, luôn cảnh giác trước mọi âm mưu hành động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

 Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo thực hiện, Đảng bộ đã lãnh đạo các tổ chức như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, v.v… phát huy sức mạnh và tính sáng tạo của mỗi tổ chức đoàn thể vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Cơ cấu kinh tế chuyển đổi đúng hướng và khai thác được mọi tiềm năng lợi thế của địa phương. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân được tăng cường đầu tư xây dựng, phát huy hiệu quả làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, năm 2021 bình quân thu nhập đầu người đạt hơn 50 triệu đồng/năm; số hộ giàu ngày càng tăng, tỷ lệ hộ nghèo thấp dần. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa thể dục thể thao không ngừng phát triển. Công tác quốc phòng - an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Phấn đấu đến năm 2022, xã Thạch Long được Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa cấp bằng công nhận xã đạt chuẩn Nông thôn mới.

Có thể nói, triển khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ xã Thạch Long đã nghiên cứu, thực hiện các biện pháp để đổi mới cơ cấu kinh tế nhằm khai thác thế mạnh của xã, phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đưa xã tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đến hôm nay, đất và người Thạch Long đã có nhiều đổi mới.

Về công tác xây dựng Đảng: Đảng bộ chú trọng công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân, giữ vững kỷ cương phép nước là yếu tố quyết định thắng lợi của Đảng bộ và Nhân dân Thạch Long qua các thời kỳ lịch sử. Từ ngày Chi bộ Sắt (chi bộ ghép) được thành lập với … đảng viên đầu tiên, đến tháng 12 năm 2021, Đảng bộ xã Thạch Long có … đảng viên sinh hoạt tại ….chi bộ. Trong đó có có …..đồng chí đã được tặng Huy hiệu Đảng gồm: ….đồng chí được tặng Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng; 60 năm tuổi Đảng có ….đồng chí, 55 năm tuổi Đảng có …. đồng chí; ….đồng chí được tặng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng; ….đồng chí được tặng Huy hiệu 45 năm tuổi Đảng; …..đồng chí 40 năm tuổi Đảng và …..đồng chí được tặng Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng. Chất lượng tổ chức Đảng và đảng viên ngày càng được nâng lên. Đảng bộ liên tục nhiều năm liền được công nhận là Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Đội ngũ cán bộ không ngừng được nâng cao về trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ; sắp xếp cán bộ phù hợp với năng lực, trình độ, có phẩm chất đạo đức tốt, đồng thời trẻ hóa đội ngũ cán bộ. Đổi mới phong cách và lề lối làm việc, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách.

Trải qua chặng đường 75 năm xây dựng và trưởng thành (1946 - 2021), Đảng bộ và Nhân dân Thạch Long đã làm nên những thành tựu to lớn, vẻ vang. Thành tựu đó được bắt nguồn từ đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, từ sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Thanh Hóa, trực tiếp là Huyện ủy Thạch Thành; từ truyền thống yêu nước, tinh thần tự lực tự cường, năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm và biết bao công sức, hy sinh xương máu của Nhân dân trong xã qua bao thế hệ; từ sự cố gắng nỗ lực vượt bậc của Đảng bộ và chính quyền xã qua các thời kỳ và còn bắt nguồn từ sự đoàn kết gắn bó giữa các tầng lớp Nhân dân, giữa dân với Đảng đã được khẳng định trong nhiều năm tháng cam go, thử thách.

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ xã Thạch Long nghiêm túc kiểm điểm nhận rõ những thiếu sót, khuyết điểm cần phải khắc phục. Đó là, trình độ năng lực của cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao; sản xuất thấp chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, tỷ trọng kinh tế nông nghiệp cao , năng suất trồng trọt chăn nuôi còn thấp, ngành nghề phát triển chậm và và chưa bền vững.

Từ những hoạt động thực tiễn sinh động và những thành tích cũng như những hạn chế tồn tại của Đảng bộ trong hơn 7 thập kỷ qua đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu:

Một là: Nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chủ động vận dụng linh hoạt, sáng tạo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương, đề ra chủ trương và phương pháp tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hoàn thành chương trình kế hoạch, nhiệm vụ mục tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ lịch sử.

Hai là: Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục chính sách pháp luật, tổ chức thực hiện kịp thời nghiêm túc các Chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân đối với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.

Ba là: Thường xuyên chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng, chính quyền; tăng cường công tác dân vận của Đảng, phát huy dân chủ, đề cao quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở; vận động và tạo mọi điều kiện để các tầng lớp nhân dân phát huy cao độ tiềm năng, sức sáng tạo trong lao động sản xuất làm giàu cho gia đình và quê hương.

Bốn là: Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các ngành đoàn thể và đội ngũ cán bộ từ xã đến thôn. Thường xuyên coi trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; Thực hiện tốt quy hoạch đào tạo cán bộ, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ đúng người, đúng việc, đánh giá cán bộ khách quan, công tâm, coi đó là cái gốc thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở địa phương; Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng; thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể tạo thành sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

 Năm là: Phát huy tiềm năng, thế mạnh về lao động, ngành nghề, tập trung xây dựng củng cố các yếu tố nội lực, tranh thủ các chương trình dự án, sự đầu tư của các cấp, các ngành để xây dựng, củng cố hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thúc đẩy mọi mặt phát triển.

Tiến bước trên con đường đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quê hương, Đảng bộ và Nhân dân xã Thạch Long đã và đang phát huy những thành tựu và kinh nghiệm tích lũy trong hơn 75 năm qua để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp văn minh. Những giá trị truyền thống lịch sử được kết tinh trong 75 năm qua của Đảng bộ sẽ tạo thành nguồn lực mới tiếp sức cho thế hệ hôm nay lập nên những kỳ tích mới, viết tiếp trang sử vẻ vang của quê hương Thạch Long anh hùng trong những thập kỷ tiếp theo của thế kỷ XXI.

 

 

 

 

 

MỤC LỤC

Trang

LỜI NÓI ĐẦU.. 8

Chương I

THẠCH LONG - VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG.. 10

LỊCH SỬ, VĂN HÓA.. 10

I. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên. 10

II. Quá trình hình thành cộng đồng dân cư, làng xã. 14

III. Truyền thống lịch sử, văn hóa. 19

Chương II

THẠCH LONG TRONG PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG GIÀNH CHÍNH QUYỀN DÂN CHỦ NHÂN DÂN VÀ THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC   25

(1930 - 1954) 25

I. Tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của thạch long trước Cách mạng tháng Tám năm 1945  25

III. Thạch Long trong thời kỳ xây dựng, bảo vệ chính quyền và tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954) 41

Chương III

CHI BỘ - ĐẢNG BỘ XÃ THẠCH LONG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THAM GIA KHÁNG CHIẾN.. 59

CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 - 1975) 59

I. Chi bộ Thạch Long lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất và tiến hành cải cách ruộng đất (1954 - 1957) 59

II. Chi bộ xã Thạch Long lãnh đạo nhân dân tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế - văn hóa (1958 - 1960) 64

III. Đảng bộ xã lãnh đạo nhân dân thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) 70

IV. Vừa sản xuất, vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần đánh bại chiến tranh phá hoại miền bắc, chi viện cho tiền tuyến đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược (1965 - 1975) 76

Chương IV

ĐẢNG BỘ XÃ THẠCH LONG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÙNG CẢ NƯỚC TIẾN HÀNH SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975 - 1985) 98

I. Tình hình Thạch Long sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất 98

II. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) 100

Chương V

ĐẢNG BỘ XÃ THẠCH LONG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN.. 121

THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG.. 121

(1986 - 1996) 121

I. Những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 - 1990) 121

II.Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từng bước ổn định đời sống nhân dân (1991 - 1996) 126

Chương VI

ĐẢNG BỘ XÃ THẠCH LONG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN.. 134

(1996 - 2010) 134

I. Đảng bộ xã lãnh đạo nhân dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn (1996 - 2000) 134

II. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2000 - 2005) 138

III. Đảng bộ xã lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, xây dựng Nông thôn mới (2005 - 2010) 146

Chương VII

ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2010 - 2020) 156

I. Đảng bộ xã lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh công nghiệp hóa xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020  156

KẾT LUẬN.. 188

PHỤ LỤC.. 193

 

 



1 .Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thạch Thành, Thạch Thành những chặng đường cách mạng, Xuất bản tháng 9 năm 1991, tr. 7.

(1). Trước khi đội giảm tô về xã Thạch Long huyện điều đồng các đồng chí sau đây lên huyện công tác: đồng chí Lưu Trọng Lợi đi giảm tô, đồng chí Vũ Văn Bọc lên huyện đội làm chính trị viên, đồng chí Phạm Văn Đua về Ban tổ chức huyện, đồng chí Trần Thanh Vân (làng Xuân Áng) lên Ban Tuyên huấn huyện, đồng chí Tạ Văn Kiện lên làm cán bộ tư pháp của huyện.

1 . Ngũ Hương: Hương bạ: giữ sổ sách của làng như sổ địa bạ, hộ khẩu, sinh tử, giá thú; Hương bản: phụ trách thu chi khánh tiết; Hương kiểm coi việc đồng điền, hương ấp, tuần phòng trong làng xã; Hương mục phụ trách giao thông, điều động phu phen tạp dịch; Hương dịch coi việc cúng tế, thông báo mệnh lệnh quan trên, xem xét vệ sinh công cộng.

1.Ban chỉ đạo Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa (2009) - Các dân tộc ở Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa, tr.394.

1 . Hệ Tiểu học gồm có 2 bậc: Bậc 1: Bậc sơ học gồm có 3 lớp: Đồng ấu, Dự bị, Sơ đẳng. Học xong bậc 1, học sinh sẽ phải qua kỳ thi Sơ học yếu lược. Người đỗ sẽ được cấp bằng “Sơ học yếu lược”. Trong kỳ thi này có một môn thi tự nguyện, đó là bài chính tả tiếng Pháp. Ai đạt điểm chuẩn thì được ghi vào bằng Yếu lược hai chữ “Mention Francaise”, tức là có biết tiếng Pháp và không phải dự kỳ thi tuyển lên bậc 2. Bậc 2 gồm 3 lớp: Lớp Nhì đệ nhất, lớp Nhì đệ nhị và lớp Nhất. Sau bậc 2, học sinh sẽ thi lấy bằng Tiểu học. Người đỗ bằng Tiểu học về làng được miễn sưu, miễn tạp dịch và đến tuổi trưởng thành thì được tham gia Hội đồng hương chính.

1 .Theo Sơ thảo Lịch sử Đảng bộ xã Thạch Long giai đoạn 1939 – 1945.

1. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Vĩnh Long, Lịch sử Đảng bộ xã Vĩnh Long. Nxb Thanh Hóa, 2014, tr 96

1 .Trong những năm 1942 – 1944, ông Trần Cừu làm Bí thư cứu quốc Thạch Long.

1 .Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa, Lịch sử Thanh Hóa, tập V (1930 – 1945), NxbKHXH,HN, 1996, tr. 196.

1 . Lịch sử Thanh Hóa, tập V (1930 – 1945), Sđd, tr.204.

2 . Lịch sử Thanh Hóa, tập V (1930 – 1945), Sđd, tr.248.

1 . Do đặc điểm về địa hình nên nhân dân thường sinh hoạt cộng đồng thành 3 cụm làng: Cụm Cẩm Bào gồm Cẩm Bào, Xuân Áng, Yên Phong; Cụm Cổ Tế Gồm: Cổ Tế, Cự Lý; Cụm Phú Ổ gồm: Dương Giao, Cự Môn, Đồng Trạch, Phú Ổ, Duyên Linh.

Các làng thuộc xã Kiến Hưng sáp nhập với xã Đồng Tâm thành xã Thạch Long: Đống Châu, Phú Ổ, Cự Môn, Đồng Trạch và Duyên Linh (Sành).

Làng Cẩm Bào còn có các tên: làng Cẩm Lý, làng Cẩm Thị, sách Cẩm Bào, xã Cẩm Bào, thôn Cẩm Bào. Trước tháng 8 năm 1945, Xuân Áng, Cẩm Bào và Yên Phong thuộc tồng Cổ Tế huyện Thạch Thành. Sau tháng 8 năm 1945 các đơn vị này sinh hoạt hành chính với các xã Đồng Tâm huyện Thạch Thành. Năm 1947, hợp nhất 2 xã Đồng Tâm với xã Kiến Hưng huyện Thạch Thành lấy tên là xã Kiến Hưng. Năm 1953, xã Kiến Hưng, huyện Thạch Thành chuyển cho huyện Vĩnh Lộc 3 thôn: Thôn Xuân Áng, thôn Cẩm Bào và thôn Yên Phong để thành lập xã Vĩnh Long.

Làng Sành hình thành từ khoảng năm 1868, ông Phạm văn Đản cùng những người khu III di cư vào lập ấp sinh sống gọi là xóm Sành Sỏi. Về sau đổi tên thành làng Duyên Linh. Trước Cách mạng tháng 8/ 1945, Duyên Linh có 38 hộ, 139 khẩu.

Làng Đồng Trạch, có một gò đất nổi dân gọi là Đồi Mít gần bở hữu ngạn sông Bưởi, tiện lợi canh nổn và chài lưới. Ông Phạm Văn Vạn, quê ở Hậu Lộc làm nghề chài lưới cùng với những người của dòng họ Phạm Viết từ làng Bồng đến đây sinh sống. Làng này có bến đò ngang thông đường qua Trường Cát về trung tâm huyện lỵ. Nơi đây ngày càng tụ cư đông đúc, nhân dân đã dựng đình làng để thờ thành hoàng làng, một ngôi chùa thờ phật và ngôi đền thờ Ngài. Đến trước Cách mạng tháng tám năm 1945, làng Đồng Trạch có 15 hộ.

Làng Cự Môn: Từ giữa thế kỷ XVII, một số hộ người dân tộc Mường từ Mường Bi, Hòa Bình di cư tới đây sinh sống. Về sau có thêm người từ Bằng Phú, Thạch Bình, từ Ninh Bình, từ Hà Trung cũng di cư đến sinh sống. Từ năm 1802 đổi tên thành Cự Môn. Đến trước cách mạng tháng tám năm 1945 có khoảng 20 hộ, trong đó khoảng 70% là đồng bào dân tộc Mường.

Làng Phú Ổ trước kia có gia đình ông Phạm Văn Ó đến khai cư lập ấp cùng với dân cư các nơi đến cư ngụ đặt tên là làng Ó. Làng Ó là một trong những vùng đất màu mỡ, thuận tiện cho gieo trồng, canh tác. Từ xưa đã có câu ca: “Làng Đủ, làng Già, La Sơn, làng Ó/ Là nơi lắm lúa, là Mường lắm cơm” Sau này có thêm các dòng họ họ Trịnh từ Hà Nam tới, họ Bùi từ Nho Quan, Ninh Bình … đến quần cư lấy tên là làng Phú ổ. Làng Phú Ổ có đền thờ danh tướng Trần Hữu Khai thời có công dẹp giặc cứu nước. Đền thờ được dân hai làng Cổ Tế và Phú Ổ xây trên núi Cốc Sơn và chung thờ, nên còn gọi là núi thờ.

Làng Đống Châu còn có tên là Cờ Lau. Đứng đầu trong làng là ông Quận ( thường gọi là Quận Lau). Cuối thế kỷ XIX, dân làng là người dân tộc Mường, đều theo đạo Công giáo. Năm 1909, xứ Nhân Lộ tổ chức lại, người làng Kỳ Lau sinh hoạt trong một xứ, lấy tên là xứ Dương Giao. Từ đó làng Kỳ Lau đổi tên thành làng Dương Giao. Trước cách mạng tháng tám năm 1945, làng Dương Giao có 12 hộ, khoảng 60 nhân khẩu.

1 .Sáu nhiệm vụ cấp bách: “1.Phát động một phong trào quần chúng tăng gia sản xuất để chống đói cho nhân dân, mở ngay một cuộc quyên gạo để giúp đỡ người nghèo. 2.Mở chiến dịch chống nạn mù chữ; 3.Gấp rút tổ chức một cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thong đầu phiếu, thực hiện quyền tự do, dân chủ của nhân dân; 4.Mở phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ những thói hư tật xấu của chế độ cũ để lại; 5.Bỏ ngay các thứ thuế vô nhân đạo, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện; 6.Ra tuyên bố tự do tín ngưỡng và thực hiện lương – giáo đoàn kết”.

1 .Theo Địa chí Thạch Thành (trang 123): Đến tháng 3-1948, huyện Thạch Thành đã có 11 chi bộ: Tím, Hồng, Đỏ (Cơ quan), Vàng (Ngọc Trạo), Mới (Việt Bắc), Chủ (Thành Công), Hồng (Minh Đạo), Sắt (Cẩm Bào), Ngọc (Đoàn Kết), Thép (Quyết Thắng), Thọ (Vân Lung).

1 . Hồ Chí Minh- Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.69

1 .Đảng ủy-Ban chỉ huy quân sự huyện Thạch Thành, Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Thạch Thành (1945 – 2007), Nxb Quân đội nhân dân, 2008, tr. 90 – 91.

1 . Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Thạch Thành (1945 – 2007), Sđd, tr. 94.

 

1 Tỉnh ủy Thanh Hóa - Bác Hồ với Thanh Hóa - Thanh Hóa làm theo lời Bác, Nxb Thanh Hóa, 2017, tr.98.

 

1 . Theo Lịch sử Đảng bộ và phong trào cách mạng xã Thành Kim

1 . Ba sẵn sàng: Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm; Sẵn sàng gia nhập lực lượng vũ trang; Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần.

2 . Ba đảm đang: Đảm đang lao động sản xuất, công tác; 2. Đảm đang gia đình; 3. Đảm đang công tác hậu phương bảo vệ tổ quốc

1 . “Ba giỏi”: Sản xuất giỏi – chiến đấu giỏi – đảm bảo giao thông vận tải giỏi” do Đại hội Công – Nông – Binh tỉnh Thanh Hóa (tháng 4-1966) phát động.

1 . Hồ Chí Minh: Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.321

2 . Lịch sử Đảng bộ huyện Thạch Thành (1930-1995), Sđd, tr.193.

1 . Lịch sử Đảng bộ huyện Thạch Thành (1930-1995), Sđd, tr.202.

1 . Lịch sử Đảng bộ huyện Thạch Thành ( 1930 -1995 ). Nxb Thế Giới - năm 1996. Tr 207.

1 .Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng cấp trên gồm 4 đồng chí: Lê Kỳ Lân - Bí thư, Nguyễn Đức Đài - Phó Bí thư, đồng chí Vũ Ngọc Uyên - Chủ nhiệm hợp tác xã, đồng chí Nguyễn Thị Ngẫu - Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, Chi hội trưởng Phụ nữ xã Thạch Long.

[1]. Tháng 3 năm 2008, đồng chí Bùi Công Định làm thường vụ trực Đảng thay đồng chí Lê Xuân Thủy.

 

CÔNG KHAI TIẾN ĐỘ GIẢI QUYẾT TTHC